C5ZONE
CHÀO MỪNG BẠN ĐÃ GHÉ THĂM DIỄN ĐÀN C5Zone


Bạn nên đăng nhập hoặc đăng ký thì mới xem được những nội dung chính của DIỄN ĐÀN. Việc đăng nhập hoặc đăng ký làm thành viên không tốn phí gì đâu. bạn yên tâm.
Bạn cũng có thể cứ làm khách vẫn xem được một phần nội dung của Diễn đàn, nhưng bị nhiều hạn chế hạn chế ở các chuyên mục như: không xem được ảnh, không nhìn thấy link ...

< /form>< /div>< /div>
C5ZONE
CHÀO MỪNG BẠN ĐÃ GHÉ THĂM DIỄN ĐÀN C5Zone


Bạn nên đăng nhập hoặc đăng ký thì mới xem được những nội dung chính của DIỄN ĐÀN. Việc đăng nhập hoặc đăng ký làm thành viên không tốn phí gì đâu. bạn yên tâm.
Bạn cũng có thể cứ làm khách vẫn xem được một phần nội dung của Diễn đàn, nhưng bị nhiều hạn chế hạn chế ở các chuyên mục như: không xem được ảnh, không nhìn thấy link ...

< /form>< /div>< /div>
C5ZONE
Would you like to react to this message? Create an account in a few clicks or log in to continue.

C5ZONELog in

We Share


Quân thủy trong lịch sử chống ngoại xâm

power_settings_newLogin to reply

description 	 Quân thủy trong lịch sử chống ngoại xâm  Empty Quân thủy trong lịch sử chống ngoại xâm

more_horiz
Quân thủy trong lịch sử chống ngoại xâm


Nguyễn Việt chủ biên
H: Quân đội nhân dân, 1983.
Đây
là một công trình khảo cứu khá công phu, giúp cho nhiều người, đặc biệt
là bộ đội hải quân hiểu được sự hình thành, tổ chức biên chế và nghệ
thuật quân thủy Việt Nam từ thời kỳ dựng nước đầu tiên đến cuối thể kỷ
XVIII. Tác giả cũng đã xác định được vị trí quan trọng của quân thủy
trong cuộc đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam.



 	 Quân thủy trong lịch sử chống ngoại xâm  Chienthangbachdang

LỜI NÓI ĐẦU
Năm
1972, một số anh em chúng tôi – những sinh viên năm cuối khoa Sử,
trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, lần lượt được lên đường tham gia quân
đội, giữa lúc cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đang ở vào thời kỳ gay
go, ác liệt. Có sự trùng hợp ngẫu nhiên là chúng tôi đều được điều về
Quân chủng Hải quân anh hùng. Và, không hẹn mà nên, trong chúng tôi đều
hình thành một ước muốn được góp phần tham gia viết sử chiến đấu của các
lực lượng vũ trang, đặc biệt là được viết về lịch sử quân thủy của tổ
tiên ta. Điều ước muốn đó hình như đã trở thành một lẽ tự nhiên đối với
mỗi chúng tôi, những chiến sĩ hải quân yêu mến lịch sử đất nước và yêu
mến quân chủng mà mình phục vụ.

Bản đề cương cuốn sách này được
bắt đầu phác thảo từ ngày 5-8-1972, tức là Ngày truyền thống Hải quân.
Nhưng, do những khó khăn khách quan, cộng với những hạn chế của bản thân
người viết, phải đến mười năm sau, cũng vào dịp kỷ niệm Ngày truyền
thống Hải quân, bản thảo mới được viết xong.

Lịch sử quân thủy là
một đề tài nghiên cứu còn mới mẻ ở ta. Cho đến nay, vấn đề quân thủy
dường như mới được nói đến rải rác trong các tác phẩm viết về lịch sử
chiến tranh hoặc danh nhân quân sự, mà chưa có một công trình chuyên
khảo nào. Tình hình đó đã phản ánh một phần những khó khăn, cả về tư
liệu cũng như về nhận thức, đối với đề tài.

Chúng ta đều biết,
lịch sử quân thủy luôn luôn gắn liền với lịch sử chiến tranh, lịch sử
lực lượng vũ trang và lịch sử thuyền bè, sông biển. Ở ta, trước nay đã
có nhiều tác phẩm nghiên cứu về lịch sử chiến tranh và trong mỗi tác
phẩm ít nhiều đều có xem xét đến tình hình lực lượng vũ trang đương
thời. Tuy nhiên, chúng ta lại thiếu những công trình nghiên cứu sâu về
binh chế, vũ khí và nghệ thuật quân sự của tổ tiên ta, nhất là thiếu hẳn
những tài liệu ghi chép kỹ về quân thủy và nghệ thuật thủy chiến. Riêng
những hiểu biết về lịch sử thuyền bè của ta thì vẫn còn một khoảng
trống lớn. Cho nên, chỗ dựa chủ yếu của người viết vẫn chỉ là những sử
liệu sơ lược và những nhận định khái quát của sử cũ, ngoài ra phần lớn
phải căn cứ vào những tư liệu của người nước ngoài.

Việc nghiên
cứu lịch sử quân thủy nước ta cũng không thể tách rời việc tìm hiểu lịch
sử quân thủy thế giới, trước hết là lịch sử quân thủy phương Đông, đề
có sự đối chiếu, so sánh. Thế nhưng, đáng tiếc là quân thủy phương Đông
hầu như còn ít được các nhà nghiên cứu thế giới đề cập tới, mặc dầu thực
tiễn lịch sử chiến tranh trên mặt nước ở phương Đông cũng rất phong
phú, đa dạng và diễn ra hoàn toàn khác với phương Tây.

Trong tình
hình khó khăn về nguồn tư liệu như vậy, những người viết cuốn sách này
không có tham vọng xây dựng một tác phẩm hoàn chỉnh về lịch sử quân thủy
cổ trung đại Việt Nam. Như tên sách đã nêu, chúng tôi chỉ muốn cố gắm
tìm hiểu một số vấn đề xoay quanh vai trò quân thủy trong lịch sử chống ngoại xâm
của tổ tiên ta. Vì thế, cuốn sách không đi sâu vào tới toàn bộ quá
trình phát triển quân thủy Việt Nam trong lịch sử, mà chỉ tập trung
trình bày vấn đề trong ba thời kỳ lớn: thời dựng nước, thời Lý Trần và thế kỷ XVIII (chủ yếu là phong trào nông dân Tây Sơn). Theo chúng tôi, có thể coi ba thời kỳ đó như ba cái mốc lớn của quá trình phát triển quân thủy cổ trung đại nước ta.

Sách gồm 12 chương. Chương một giới thiệu khái quát lịch sử phát triển quân thủy thế giới cho đến thế kỷ XVIII. Chương hai trình bày cơ sở hình thành truyền thống thạo thủy chiến của dân tộc ta. Từ chương ba đến chương mười một,
trình bày sự phát triển của quân thủy qua ba mốc lớn. Ở mỗi mốc, đều
gắng làm rõ hai nội dung: một là, tổ chức biên chế quân thủy và thuyền
chiến trong khung cảnh chung của quân đội đương thời; hai là, vai trò
của quân thủy trong chiến tranh chống ngoại xâm và vì sự tồn tại, phát
triển của đất nước. Chương cuối cùng là chương kết.

Trong
khi trình bày, để đảm bảo yêu cầu khoa học, đồng thời đáp ứng nhu cầu
của đông đảo bạn đọc, chúng tôi gắng hạn chế những chú thích dài ở cuối
trang, mà sắp thành những đoạn in chữ nhỏ, đặt dưới những chỗ cần chú
giải, hoặc mở rộng. Một số tên sách, tập san có nhan đề dài được viết
tắt cho gọn (xin tra cứu ở bảng chú thích chữ viết tắt).

*

Hoàn
thành cuốn sách này, chúng tôi được sự cổ vũ, giúp đỡ rất nhiều của Bộ
Tư lệnh Hải quân, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân và sự dìu dắt tận tình
của các giáo sư Phan Huy Lê, Trần Quốc Vượng, Hà Văn Tấn. Giáo sư Trần
Quốc Vượng, thượng tá Trịnh Tuần và thiếu tá Trần Hồng Thụy đã đọc kỹ
bản thảo và góp nhiều ý kiến quý báu. Chúng tôi xin trận trọng biết ơn
tất cả sự dìu dắt và giúp đỡ đó.

Sách ra mắt lần đầu và đây cũng
là lần đầu chúng tôi viết sách, nên chắc chắn còn nhiều sai sót. Chúng
tôi rất mong đông đảo bạn đọc và các nhà nghiên cứu góp ý xây dựng.


Hà Nội, 5-8-1982
CÁC TÁC GIẢ

description 	 Quân thủy trong lịch sử chống ngoại xâm  EmptyRe: Quân thủy trong lịch sử chống ngoại xâm

more_horiz
Chương một

VÀI NÉT VỀ LỊCH SỬ QUÂN THỦY
TRÊN THẾ GIỚI
Người vốn là một động vật sống trên cạn.

Thế
giới mặt nước là môi trường “lạ” đầu tiên mà con người quan tâm đến.
Cũng như mọi loài sinh vật khác, nước vốn là một nhu cầu sống còn của
con người. Dường như không một nơi cư trú nào của người xưa lại hoàn
toàn tách rời nguồn nước. Nhưng cũng từ rất sớm, nước là trở ngại thiên
nhiên to lớn nhất đóng khung phạm vi hoạt động của người. Những người
vượn đầu tiên có thể vượt núi, xuyên rừng, nhưng đành bó tay trước sông,
hồ, biển cả…

Cuộc sống lao động đã ban cho con người trí tuệ và
đôi bàn tay khéo léo. Họ đã tìm cách vượt qua những trở ngại để vươn tới
những miền đất mới lạ đầy hấp dẫn. Những thành tựu đầu tiên của cuộc
chinh phục mặt nước đã ra đời trên một thân cây gỗ nổi hoặc chiếc bè đơn
giản.

Sự giống nhau của công cụ và cả chính xương cốt con người
thời đá cũ trên những địa bàn vốn bị sông nước ngăn cách đã chứng tỏ
lịch sử chinh phục mặt nước của con người tồn tại từ cách đây hàng triệu
năm. Quá trình chinh phục mặt nước cũng chính là quá trình phát triển
các phương tiện hoạt động trên mặt nước: từ chiếc bè đơn giản, chiếc
thuyền độc mộc, đến những thuyền đóng ván dùng chèo, dùng buồm đầu tiên;
từ chiếc tơ-ri-o ba tầng chèo trong văn minh Hy Lạp – La Mã cổ đại đến những cli-pơ
cắt sóng lừng lẫy châu Âu; từ những tàu hơi nước đầu tiên Clê-mông năm
1807 đến những tàu dùng năng lượng nguyên tử ngày nay… Đó cũng đồng thời
là quá trình con người chinh phục và phát minh những miền đất mới, như
cuộc hành trình chiếm cứ các đảo nam Thái Bình Dương của các thế hệ cư
dân từ lục địa châu Á, cuộc vượt Đại Tây Dương sang châu Mỹ của các cư
dân Bắc Âu trên những thuyền Vi-kinh thế kỷ IX, X đến những phát kiến vĩ
đại của Cri-xtốp Cô-lông năm 1942, của Ma-gien-lăng năm 1519…


 	 Quân thủy trong lịch sử chống ngoại xâm  Vikings468x364
Và, đó còn là quá trình phát triển nghệ thuật chiến tranh trên mặt nước.

Trong các tài liệu phương Tây, nghệ thuật chiến tranh trên mặt nước thường đồng nghĩa với nghệ thuật hải chiến. Thực ra, dùng thuật ngữ hải chiến
không bao quát được hết nội dung chiến tranh trên mặt nước, đặc biệt
khi xem xét lĩnh vực này ở phương Đông. Trong sách này, chúng tôi dùng
thuật ngữ thủy chiến để chỉ chung các hoạt động quân sự trên mặt nước, bao gồm cả ngoài biển (hải chiến), lẫn trong sông, hồ nước ngọt lục địa. Tương ứng với thủy chiếnthủy quân nhằm chỉ chung các lực lượng vũ trang trên mặt nước, trong đó hải quân chỉ là một bộ phận thường trực ngoài biển.

Mặt
nước, từ khi được con người chinh phục, đã dần dần được sử dụng vào
những mục đích mang tính chất quân sự. Chiến tranh không chỉ bó hẹp
trong phạm vi đất liền, mà còn lan rộng cả trên mặt nước. Đụng độ trên
mặt nước càng nhiều đã thúc đẩy sự phát triển của vũ khí và những phương
tiện thủy chiến.

Có một thời kỳ dài, vũ khí chính là công cụ của
con người trong cuộc sống lao động hàng ngày. Lịch sử vũ khí thủy chiến
cũng vậy, nó bắt nguồn trực tiếp từ những dụng cụ và phương tiện hoạt
động trên mặt nước của con người. Thoạt đầu, những công cụ đã trở thành
vũ khí ở trên cạn được mang nguyên dạng vào thủy chiến. Trong khoảng
thời gian khá dài, phương thức chiến đấu của người lính trên thuyền
không khác lắm với người lính trên cạn. Nhưng, khi hoạt động chiến đấu
trên mặt nước trở nên thường xuyên thì sự chuyên hóa vũ khí và các
phương tiện chiến đấu trên mặt nước cũng trở thành xu thế tất yếu. Từ
đó, nghệ thuật thủy chiến dần tách thành một hệ thống độc lập trong nghệ
thuật quân sự nói chung. Sự phát triển lực lượng vũ trang và trang bị
vũ khí của mỗi nước luôn luôn gắn bó với tiềm năng kinh tế của nước đó,
đặc biệt rõ nét ở những nước có quân thủy. Số lượng và chất lượng của
thuyền chiến luôn luôn là tấm gương phản ánh một nền công nghệ nhất
định. Thực tiễn lịch sử đã tỏ rõ một hạm đội mạnh luôn luôn dựa trên cơ
sở một nền kinh tế phát triển.

description 	 Quân thủy trong lịch sử chống ngoại xâm  EmptyRe: Quân thủy trong lịch sử chống ngoại xâm

more_horiz
*

Theo tài liệu hiện biết, những hoạt động quân sự trên mặt nước
tồn tại có tổ chức với tư cách độc lập và ít nhiều khác biệt với các
hoạt động quân sự trên cạn, đã xuất hiện từ những đụng độ thường xuyên,
ác liệt giữa các nước chiếm hữu nô lệ cổ đại, trong đó vùng biển Địa
Trung Hải là nơi sôi động nhất. Đó là sự ra đời của các hạm đội quân sự độc lập bên cạnh quân đội, như các hạm đội của Ai Cập, Phê-ni-xi, Các-ta-giơ, Hy Lạp, La Mã…

Đỉnh
cao của nghệ thuật hải chiến trong thời cổ đại thuộc về những hạm đội
của Hy Lạp, La mã (thế kỷ VIII trước Công nguyên – thế kỷ V sau Công
nguyên). Do vị trí và nhu cầu giao thông buôn bán trên vùng biển Địa
Trung Hải – cái nôi của nhiều quốc gia chiếm hữu nô lệ cổ đại – sớm có
những hoạt động trên biển đặc biệt sôi động. Các nước chủ nô trong vùng
đổ xô vào kiếm lợi bằng con đường thương mại trên biển để cướp bóc và
chinh phục lẫn nhau. Chưa bao giờ trên biển lại có sự đụng độ thường
xuyên và khốc liệt như thời kỳ này. Vì vậy, lần đầu tiên trong lịch sử,
lực lượng vũ trang được người ta biên chế ổn định thành hai bộ phận
riêng biệt, nhằm đáp ứng hai phạm vi tranh giành của các quốc gia cổ đại
Địa Trung Hải: Quân đội (Army) – trên đất liền, và Hạm đội (Flot) – trên biển.

Hạm
đội lúc này tổ chức khá chặt chẽ với những thuyền chiến đặc chủng khác
hẳn với tàu thuyền thông thường. Kiểu thuyền chiến nổi tiếng và tiêu
biểu nhất ở Địa Trung Hải thời này là tơ-ri-ơ-rem (trierem). Đến
chiến tranh Pu-nít (246 – 146 trước Công nguyên) trong hạm đội
Các-ta-giơ xuất hiện loại thuyền chiến lớn hơn – pen-ti-o (pentior),
chạy theo khuynh hướng dùng độ lớn của thuyền để áp đảo đối phương. Đến
nội chiến Đông – Tây ở La Mã, hạm đội Ốc-ta-vi-a, nhờ có máy bắn
(ca-ta-pun và ba-li-xta) lại phát triển một loại thuyền chiến nhỏ hơn
nhưng rất cơ động, có thể dễ dàng tránh các đòn ta-ran, va-rôn của các
tơ-ri-o-rem và pen-ti-o để giáng trả bằng các loại đạn của máy bắn. Đó
là các li-bua.

Tơ-ri-o, còn gọi là tơ-ri-ơ-rem (trierem), là các loại thuyền chiến ba tầng chèo bắt nguồn từ chữ la-tin (tres là 3 và remis
là mái chèo). Tơ-ri-o Hy Lạp thường có trọng tải 230 tấn, dài 40 – 45m,
rộng 6m, mớn nước 2,5m, mái chèo dài 4 – 4,5m. Mỗi thuyền có từ 150 –
170 mái chèo, xếp thành ba tầng. Tốc độ cao nhất đạt 7 – 8 hải lý/giờ
khi cả ba tầng chèo hoạt động (mỗi hải lý bằng 1,852km). Tơ-ri-o có thể
có thêm một cánh buồm vuông hứng gió.

Biên chế tơ-ri-o thường có
150 – 170 nô lệ chèo thuyền từ 18 – 50 lính chiến đấu, 12 – 16 thủy thủ,
1 thuyền trưởng, 1 lái chính, 1 lái phụ và 1 trưởng chèo. Lính chiến
đấu trên thuyền trang bị câu liêm, búa mỏ chim, giáo, kiếm, lao, mộc và
cung tên.

Pen-ti-o là loại thuyền có hai tầng chèo ở mũi,
ba tầng chèo ở phía lái, mái chèo rất lớn, từ 3-5 người đẩy một mái
chèo. Pen-ti-o có lượng chiếm nước 500 tấn, dài 51m, rộng 8m, mớn nước
35m.

Li-bua trung bình có lượng chiếm nước 80 – 100 tấn, dài 30m,
rộng 5m, mớn nước 4m, chỉ có một hay hai tầng chèo. Loại thuyền này
thường có máy bắn. Những li-bua lớn còn có lầu bắn, vách che đạn có lỗ bắn (lữ tường).


 	 Quân thủy trong lịch sử chống ngoại xâm  Triremis
Triremis

description 	 Quân thủy trong lịch sử chống ngoại xâm  EmptyRe: Quân thủy trong lịch sử chống ngoại xâm

more_horiz
Vũ khí
chính của các tơ-ri-o và pen-ti-o là những đòn ta-ran thực hiện bằng
cách đâm các mũi nhọn bằng gỗ cứng bọc thép ở mũi thuyền mình vào phá
hỏng mạn thuyền đối phương. Sau này, riêng các tơ-ri-o La Mã xuất hiện
thêm loại vũ khí mới là va-rôn. Đó là một tấm trục lớn đặt ở mũi thuyền,
trên có treo một khối kim loại nặng hình chóp nón, thân cần trục gắn
thêm một tấm ván rộng. Khi hai thuyền giáp nhau, cần trục được kéo nên
và thả khối kim loại xuống giáng mạnh vào boong tàu đối phương, đồng
thời ván cầu hạ xuống, lính giáp chiến trên tấm ván nhảy sang thuyền
dịch. Các li-bua thường không có ta-ran và va-rôn, thay vào đó là các
máy bắn, gồm cả các ca-ta-pun (catapultae) và ba-li-xta (balistae).

Ca-ta-punba-li-xta
cấu tạo chung giống một chiếc nỏ, tức là có một trục đỡ để làm chỗ đặt
tên, đạn và một dây da buộc vào hai đầu tay đòn, dùng sức bật đàn hồi để
bắn. Ở những chiếc nỏ bình thường, lực đàn hồi là sức bật của cánh
cung, loại này được người Hy Lạp phát minh từ trước với tên là ga-xta-phê. Khác biệt căn bản của ca-ta-pun, ba-li-xta với nỏ hay ga-xta-phê ở chỗ người La Mã đã phát minh ra những cuộn xoắn tạo lực bật thay cho cánh cung đơn giản. Cuộn xoắn
làm bằng gân, đuôi ngựa… tết lại, người ta cắm vào hai ống xoắn hai tay
đòn thay cho hai cánh nỏ. Dây bị xoắn sẽ tạo ra lực bật của cánh tay
đòn. Để tiện sử dụng, máy bắn có một hệ thống điều chỉnh tầm, hướng. Ca-ta-pun gốc từ tiếng Hy Lạp, có nghĩa là mũi tên. Thoát đầu, nó được dùng để chỉ loại máy bắn tên nhằm phân biệt với ba-li-xtamáy bắn đá. Sau này, trên nguyên tắc cuộn xoắn, người La Mã còn chế ra loại máy bắn một tay đòn, gọi là ô-na-grơ.
Các loại máy bắn này thường có kích thước rất lớn, thông thường có thể
bắn được vật nặng hàng chục ki-lô-gam, đi xa tới 400 – 500 mét. Đột xuất
có những máy bắn cỡ lớn của Vi-tơ-ruy-vơ (La Mã), có thể bắn loại đạn
nặng tới 162 ki-lô-gam. Ca-ta-pun và ba-li-xta đặt tên thuyền thường chỉ
là những máy bắn hạng nhỏ và trung bình.

Nhờ có máy bắn, thuyền
chiến có vũ khí công phá thuyền địch từ xa, mở hướng phát triển mới
trong nghệ thuật thủy chiến. Lịch sử ghi lại nhiều trận đánh độc đáo của
các hạm đội đương thời có trang bị máy bắn. Năm 184 trước Công nguyên,
hạm đội Ha-ni-ban dùng ca-ta-pun bắn sang thuyền đối phương những giỏ
đựng đầy rắn độc. Năm 11 trước Công nguyên, hạm đội Ốc-ta-vi-a dùng tên
gài lửa phóng hỏa. (Xem thêm E.W. Marsden: Greek and Roman Artillery, Oxford, 1969; W. Soedel và V. Foley: Balistes et catapultes de l’ Antiquité, trong Pour la Scienne, số 19, 5-1979).

Với
trang bị như vậy, đối thủy thời nay thường diễn ra dưới ba hình thức
tác chiến: 1. Dùng những đòn ta-ran và va-rôn phá hỏng thuyền đối
phương; 2. Áp mạn đổ bộ đánh giáp lá cà; 3. Dùng máy bắn gây thiệt hại
cho thuyền địch từ xa. Tuy nhiên, lúc này máy bắn chưa có hiệu quả cao
lắm trong đối thủy, nên thực tế những đòn ta-ran, va-rôn và các trận
giáp chiến mới là các thủ đoạn tác chiến phổ biến của Địa Trung Hải.
Ph.Ăng-ghen viết: “Cung nỏ, súng bắn đá và những cố máy phóng lao (catapultae) cùng những máy phóng đạn đồ sộ (balistae)
là những vũ khí duy nhất để chiến đấu ở cự ly xa. Không thể nào gây
được một tổn thất nghiêm trọng cho đối phương ở trên biển chừng nào
thuyền chiến hai bên chưa trực tiếp áp sát vào nhau. Và do đó, chỉ có
thể có hai phương thức tác chiến trên biển: Phải cơ động như thế nào để
cho mũi sắt nhọn, cứng ở đầu mũi thuyền đâm thật mạnh vào mạn thuyền đối
phương và đánh chìm nó, hoặc là áp sát vào mạn thuyền đối phương, dùng
xung phong đánh giáp lá cà để chiếm tàu, tiêu diệt đối phương” 1.
------------------
1 Ph.
Ăng-ghen, Tuyển tập luận văn quân sự, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân,
Hà Nội, 1978, t. II, tr. 286. Chúng tôi dựa vào bản tiếng Nga để sửa lại
chút ít cho rõ ý tác giả.



 	 Quân thủy trong lịch sử chống ngoại xâm  Tarany
Ta-ran

description 	 Quân thủy trong lịch sử chống ngoại xâm  EmptyRe: Quân thủy trong lịch sử chống ngoại xâm

more_horiz
Các vấn đề chiến thuật cũng bước đầu được các nhà lý luận quân sự đương
thời đề cập tới, cho thấy thủy chiến lúc đó đã biết khai thác các yếu tố
thời tiết, địa hình, tâm lý… Các trận đồ sử dụng trong hành quân, đối
thủy, đổ bộ ban đầu thường bắt chước các trận đồ trên bộ, về sau dần dần
xuất hiện những trận đồ sáng tạo riêng cho thủy chiến.

Trong
đối thủy, các hạm đội Địa Trung Hải thường dùng đội hình hàng ngang,
dàn thành nhiều hàng thuyền liên tiếp thay nhau lên giáp chiến. Cũng
thấy xuất hiện phương trận (trận vuông) và viên trận (trận tròn) khi chống lại kẻ địch tiến công. Sau đó, người La Mã sáng tạo ra trận đồ vành trăng khuyết chuyên dùng trong đối thủy và đội hình cái nêm chuyên dùng cho hành quân vượt biển. Xem Lịch sử nghệ thuật hải chiến (tiếng Nga), Nhà xuất bản Quân sự, Mát-xcơ-va, 1953.

Vê-di-xi
(Vegee), nhà triết học, nhà sử học, đồng thời cũng là một nhà lý luận
quân sự nổi tiếng người La Mã, sống vào cuối thế kỷ IV sau Công nguyên
viết: “Tương tự như các trận đánh trên bộ, ở trên biển cũng thường sử
dụng lối đánh bất ngờ vào đám thủy thủ thiếu kinh nghiệm hoặc dùng lối
đánh phục kích ở gần những nơi thuận tiện, như đoạn đường hẹp qua giữa
các đảo… Nếu sự thận trọng của địch giúp chúng tránh được những chỗ phục
kích và buộc phải đánh ở chỗ biển rộng, thì khi đó phải bố trí đội hình
chiến đấu sao cho những li-bua không xếp thành hàng ngang như những
trận đồ trên bộ, mà là dãy uốn cong tựa như trăng lưỡi liềm, với hai
cạnh sườn vươn lên phía trước, còn trung tâm đặt ở chỗ lõm nhất, tựa hồ
như một cái vịnh vậy. Nếu đối phương muốn chọc thủng đội hình, thì trước
sức mạnh của thế trận đó, chúng sẽ bị bao vây và đánh tan. Ở hai bên
sườn vì thế cần bố trí những thuyền chiến và binh lính được chọn lọc,
đại diện cho tinh hoa và sức mạnh của quân đội. Ngoài ra, muốn có lợi
thế, hạm đội phải luôn luôn chiếm vùng biển sâu, thoáng, rộng, ép thuyền
đối phương vào sát bờ, khiến chúng chen nhau mà không thể tiến công
nhanh được nữa”2.

Nghệ thuật hải chiến Hy Lạp – La Mã
là đỉnh cao nhất của nghệ thuật hải chiến cổ đại, nhưng ngày càng rõ
ràng, điển hình ấy không phải là hiện tượng phổ biến của toàn thế giới.
Dường như đó chỉ là hiện tượng cá biệt của Địa Trung Hải. Trong một khu
vực mà chúng ta có thể xem xét, gồm các nước ven bờ tây Thái Bình Dương,
đương thời cũng xuất hiện những trung tâm văn minh, những quốc gia cổ
đại mà mối giao lưu trên biển giữa chúng đã khá sầm uất, thì tình hình
chiến tranh trên mặt nước đã không diễn ra như Địa Trung Hải và sự phát
triển quân thủy đã đi theo một con đường riêng.
--------------------------------
2 Vê-di-xi, Lược giải nghệ thuật quân sự, dẫn theo Lịch sử nghệ thuật hải chiến, Mát-xcơ-va, 1953.

description 	 Quân thủy trong lịch sử chống ngoại xâm  EmptyRe: Quân thủy trong lịch sử chống ngoại xâm

more_horiz
Trong các quốc gia cổ đại ở bờ tây Thái Bình Dương, các nước thuộc khu
vực Đông-Nam Á cổ đại (bao gồm từ phía nam sông Dương Tử trở xuống) đặc
biệt phát triển quân thủy.

Sử
sách thường nhắc đến quân thủy của các nước Ngô, Việt ở hạ lưu sông
Dương Tử vào khoảng thế kỷ V trước Công nguyên hoặc quân thủy Ngô trong
cục diện Tam quốc, thế kỷ III sau Công nguyên. Có thể kể thêm quân thủy
Văn Lang, Âu Lạc, Cham-pa, Phù Nam…

Nhưng cũng dễ nhận
thấy quân thủy của các nước đó lập ra trước hết không phải xuất phát từ
những mục tiêu quân sự trên biển, mà nhằm đáp ứng các nhiệm vụ quân sự
trong đất liền. Ở đây rất hiếm thấy những trận hải chiến, song những
trận thủy chiến lại diễn ra phổ biến trên sông, hồ. Thuyền chiến chủ yếu
làm phương tiện cơ động cho quân đội trên sông, hồ, kích thước thường
nhỏ, nhưng số lượng lại rất nhiều. Mái chèo vẫn là động lực chính của
thuyền, nhưng khác với Địa Trung Hải, ở đây người chèo thuyền đồng thời
là lính chiến đấu. Trang bị trên thuyền đơn giản, quân lính có giáo,
lao, rìu, qua, cung nỏ và mộc. Có một số chiến thuyền làm thêm các tầng
lầu cho lính cung nỏ, một số trang bị những phương tiện đánh hỏa công.
Cá biệt có trường hợp xuất hiện những thuyền chiến cực lớn. Thuyền chiến
ít có vũ khí riêng của mình như ta-ran và va-rôn ở Địa Trung Hải, nhưng
truyền thuyết từng nói tới thuyền bọc đồng (đấu thuyền) và những máy nỏ có thể đã được đưa lên thuyền.

Lâu thuyền thời Hán, theo thư tịch, cao tới 10 trượng. Ngô thuyền (Tam quốc) dài 20 trượng, rộng 3 trượng cao 3 – 4 trượng (một trượng thời Hán bằng 276,5cm) (trong Nam châu kỳ vật chí dẫn theo bài Sơ bộ phục nguyên hải thuyền thời Tống ở vịnh Tuyền Châu, Văn vật, số 10 – 1975, Bắc Kinh, tr.28).

Nỏ
là một loại vũ khí cơ học rất độc đáo, sản phẩm sáng tạo của cư dân
Đông-Nam Á cổ đại. Cùng với thời điểm ra đời của những ca-ra-pun,
ba-li-xta Hy La, ở khu vực này cũng được sử sách hoặc truyền thuyết nói
đến sự ra đời của những máy nỏ. Đó là những chiếc nỏ cỡ lớn như máy nỏ Sở với cánh cung dài gần 2m, tên dài gần 1m, hoặc là nỏ thần của An Dương Vương có thể bắn một phát hàng chục mũi tên, hoặc nỏ liên hoàn
của Mạnh Hoạch mà Gia Cát Lượng đã bắt chước. Thuyền chiến khắc trên
trống đồng (rõ nhất là Hoàng Hạ) có trang bị những chiếc nỏ rất lớn đó.

Nhiều
trận thủy chiến lớn đã xảy ra ở khu vực này, trong đó nhiều trận đã đi
vào các tác phẩm sử ký, binh thư đương thời như những kiểu mẫu của nghệ
thuật thủy chiến cổ đại phương Đông. Đáng tiếc là chưa có những công
trình chuyên khảo về vấn đề này.


 	 Quân thủy trong lịch sử chống ngoại xâm  Notrentrongdong
Họa tiết trên trống đồng thể hiện máy nỏ

description 	 Quân thủy trong lịch sử chống ngoại xâm  EmptyRe: Quân thủy trong lịch sử chống ngoại xâm

more_horiz
*

Sự
tan rã của đế quốc La Mã vào thế kỷ V sau Công nguyên cũng đồng thời
chấm dứt thời kỳ sôi động và đẫm máu trên biển Địa Trung Hải. Trong suốt
thời Trung Cổ, vùng biển này bình ổn trong nhịp điệu của những cánh
buồm thương mại. Trong khi đó, vùng biển Bắc Âu lại dội lên những trận
hải chiến lớn mà tiêu biểu là hoạt động của các hạm đội Noóc-măng-đi với
những thuyền chiến Vi-kinh nổi tiếng. Nước Anh lúc đó cũng bị lôi vào
vòng chiến, còn các nước ven Địa Trung Hải hình thành một đối tượng kinh
doanh mới: lập những hạm đội đánh thuê.

Về chiến thuyền, đây là
thời kỳ tơ-ri-o Hy Lạp – La Mã nhường chỗ cho sự phát triển của những
ga-le-rơ (galère) vũ trang, tạo dáng dài, nhiều mái chèo và vì thế rất
cơ động.

Nhanh
nhất phải kể đến ga-le-rơ dài 40m, rộng 5,3m, mớn nước 2,5m, có hai mái
chèo ở đuôi thuyền. Đến thế kỷ XV xuất hiện những ga-le-rơ có tới 300
mái chèo, mỗi mái hai người đẩy.

Bác-giơ vốn là loại
thuyền tải cỡ lớn, được những người Giê-noa ở thế kỷ XIV – XV cải tiến
thành loại thuyền chiến lớn nhất châu Âu đương thời. Bác-giơ trọng tải
hàng ngàn tấn, có bốn cột buồm, dùng loại bánh lái bản rộng, nẹp sắt là
thành tựu kỹ thuật hàng hải mới nhất đương thời.

Ngoài ga-le-rơ, phải kể đến những thuyền chiến cỡ lớn khác như nép (nef), ca-rắc-cơ (caraque), bác-giơ
(barge). Vũ khí trên thuyền lúc này thiếu đi những mũi nhọn ta-ran, cần
trục va-rôn hoặc các máy bắn đá, trái lại, tập trung tăng cường vũ khí
cá nhân và khả năng tác chiến của lính giáp chiến.

Kỹ thuật tàu
thuyền lúc này cũng có những tiến bộ rất căn bản. Đó là sự phát triển kỹ
thuật kết hợp loại buồm tam giác (buồm la-tin) lèo lái với buồm vuông
hứng gió cổ truyền và việc sử dụng ngày càng rộng rãi bánh lái có trục
rời, bản nẹp sắt. Các yếu tố kỹ thuật mới này cùng với sự phát triển của
kỹ nghệ đóng vỏ tàu đã cho phép tạo ra những chiếc tàu có khả năng hàng
hải tốt ở cuối thế kỷ XV, cho phép thực hiện những cuộc thám hiểm vượt
biển chưa từng có trong lịch sử trước đó, của Cri-xtốp Cô-lông và sau
đó, của Ma-gien-lăng. Đó cũng chính là tiền đề kỹ thuật của cách mạng
tàu buồm trong những thế kỷ sau.


 	 Quân thủy trong lịch sử chống ngoại xâm  Galere
Galere






description 	 Quân thủy trong lịch sử chống ngoại xâm  EmptyRe: Quân thủy trong lịch sử chống ngoại xâm

more_horiz
Trong lĩnh vực vũ khí, đến thế kỷ XIV – XV đã diễn ra một bước phát triển nhảy vọt: sự ra đời của pháo binh bắn bằng thuốc súng.
Thực ra, thuốc súng đã được phát hiện từ lâu và lác đác trong những thế
kỷ XI, XII, XIII, một số hỏa khí đã được sử dụng trong lĩnh vực quân
sự. Nhưng việc sử dụng phổ biến những khẩu pháo vỏ kim loại vào chiến
tranh cả trên bộ lẫn dưới nước thì phải đến tận thế kỷ XIV – XV. Ở cả
phương Đông lẫn phương Tây, pháo được đưa lên thuyền vào nửa sau thế kỷ
XIV. Thoạt đầu, pháo chỉ được đặt ở phía mũi tàu, nhiều lắm là 4 khẩu.
Chỉ đến những thế kỷ sau, ở châu Âu, cách mạng công nghiệp mới tạo ra
những tàu chiến có hàng trăm pháo dàn thành nhiều tầng ở hai bên mạn.

Thế kỷ XVI, XVII, XVIII được coi như là những thế kỷ của hạm đội tàu buồm.
Cả châu Âu bị cuốn hút và cơn sốt chạy đua trong kỹ nghệ đóng tàu buồm.
Đây là thời kỳ kỹ thuật hàng hải được hoàn thiện và những con đường
vượt biển được xác lập. Người ta đã xây dựng được con tàu như một thành
trì, có thể đảm bảo cuộc sống thực sự đầy đủ và lâu dài trên biển.

Sự
phát triển của kỹ nghệ tàu thuyền thời này xuất phát từ nhu cầu phát
triển của xã hội phong kiến châu Âu đang chuyển mình mạnh mẽ sang chủ
nghĩa tư bản. Nó trở thành công cụ thực hiện chính sách thực dân của các
cường quốc châu Âu. Chủ nghĩa thực dân và chế độ thuộc địa cũng từ đây
lan rộng khắp thế giới theo những cánh buồm no gió chất đầy hàng hóa và
vũ khí.

Tính chất kiếm lợi và cướp bóc của hàng hải thực dân thời
này tất không tránh khỏi những cuộc xung đột trên biển. Chiến tranh và
cướp bóc trên biển trở nên thường xuyên và khốc liệt hơn bao giờ hết,
khiến cho hầu như toàn bộ tàu vượt biển của châu Âu thời này, bất kể là
tàu buôn hay tàu chiến, đều trang bị đầy vũ khí. Đó thực sự là thời kỳ của những cuộc chiến tranh trên biển.
Hạm đội thường trực xuất hiện phổ biến khắp các cường quốc phương Tây.
Ph. Ăng-ghen đã nhận xét: “Cũng bắt đầu từ đó là thời kỳ các trận đánh
trên biển trở nên phong phú hơn, các vũ khí trên biển được phát triển
hơn bất cứ thời kỳ nào trước đây”3.

Các hạm đội tiêu
biểu nhất trong thời kỳ này là của Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Hà Lan và
sau này nổi lên Anh, Pháp… Các hạm đội đó được thành lập và phát triển
nhằm một mục tiêu rất rõ là bảo vệ và giành giật các nguồn lợi trên biển
cho nước mình, chống cướp biển, đồng thời lại cũng chính là cướp biển.
Đó chẳng những là lực lượng đối chọi lẫn nhau giữa các cường quốc trên
biển, mà còn là công cụ để thực hiện các cuộc cướp bóc, xâm lược các
nước phương Đông.


 	 Quân thủy trong lịch sử chống ngoại xâm  Shipwp
--------------------
3 Ph. Ăng-ghen, Tuyển tập luận văn quân sự, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1978, t. II, tr. 288.

description 	 Quân thủy trong lịch sử chống ngoại xâm  EmptyRe: Quân thủy trong lịch sử chống ngoại xâm

more_horiz
Sự phát triển của các hạm đội vũ trang thời này chủ yếu biểu hiện trên hai mặt: tàu thuyềnsúng pháo.

Những
chiếc ca-ra-ven (caravelle), nổi tiếng châu Âu ở thế kỷ XV, là đỉnh cao
của kỹ nghệ đóng tàu thuyền thời trung cổ, cũng là mốc đầu tiên cho một
thời kì mới của tàu thuyền châu Âu. Người ta nhanh chóng rời bỏ những
kiểu thuyền chiến cồng kềnh, kém cơ động, như bác-giơ, nép, ca-rắc-cơ,
và thay vào đó những tàu chiến thân dài, thành tàu cao đều, chia làm
nhiều tầng boong để đặt pháo.

Sức cơ động của tàu đặc biệt tăng lên nhờ sự phát triển của kỹ thuật dùng buồm.

Trước
đây, tàu thuyền thường chỉ có hai hoặc ba cột buồm lại ít tầng buồm,
diện tích hứng gió không lớn. Lúc này tàu thường có bốn cột buồm, chiếc
nhiều nhất có tới bảy cột. Cột cao nhất tới 70 mét. Những cột chính gồm
nhiều tầng với vô số những lá buồm lớn nhỏ dùng cho các nhiệm vụ điều
khiển tốc độ, hướng đi khác nhau. Theo những thông số kỹ thuật đương
thời, đối với loại tàu chiến hạng nặng, trang bị 120 đại bác, thì cứ mỗi
tấn trọng tải dãn nước cần phải có 0,65m2 buồm. Phải có 3.140 m2 buồm, tương đương với 4.000 kg buồm cho một chiếc tàu như vậy. Ở những loại tàu như bri-giơ (brige), loại tàu cần cơ động nhanh, tỷ lệ này cao hơn: một tấn dãn nước cần 1,9m2 buồm, hoặc cao hơn nữa phải kể đến chiếc cli-pơ (clipe) mang tên Ca-ti-xắc (Catisac). Với 2,5m2
buồm cho một tấn dãn nước, tàu Ca-ti-xắc có thể vẫn đạt tốc độ 7 hải
lý/giờ khi trời hầu như không hề có một gợn gió, hoặc như cách nói của
các thủy thủ thời này là khi có thể “cầm ngọn nến đi trên boong mà không
tắt”.

Kỹ thuật dùng buồm thời này đạt đến mức tuyệt đỉnh.
Từ đây vắng bóng dần những thuyền chiến dùng chèo, nhờ vậy biên chế
thủy thủ trên thuyền giảm hẳn xuống, chủ yếu chỉ gồm các thủy thủ mặt
boong.


 	 Quân thủy trong lịch sử chống ngoại xâm  Hmscaledonia
Một tàu buồm
Tuy
nhiên, một số thuyền chiến hoạt động trong sông vẫn duy trì sức cơ động
chính bằng mái chèo. Những ga-le-rơ Hà Lan ở thế kỷ XVI – XVII và hầu
hết thuyền chiến ở các nước phương Đông thuộc loại này.

Ga-le-rơ
Hà Lan dài 38m, rộng 6m, cao từ đáy đến mạn thuyền chỉ 4m, trang bị 36
pháo ở hai mạn, thường có 14 – 16 cặp chèo, mỗi mái chèo dùng 2 – 3
người đẩy, có thể đạt tốc độ 14 – 15 km một giờ.

Vào cuối
thời kỳ này, máy hơi nước được phát minh đã nhanh chóng thổi một luồng
gió mới vào kỹ nghệ tàu thuyền. Trong các hạm đội quân sự ở phương Tây,
xen giữa những cột buồm, bắt đầu lác đác xuất hiện ống khói hơi nước.
Tuy nhiên, phải trải qua hàng thế kỷ mầy mò, thử nghiệm, đến nửa thế kỷ
XIX các cánh buồm mới thực sự nhường chỗ cho ống khói của tàu hơi nước.

description 	 Quân thủy trong lịch sử chống ngoại xâm  EmptyRe: Quân thủy trong lịch sử chống ngoại xâm

more_horiz
Song song với cuộc chạy đua về tốc độ và khả năng cơ động, lúc này nổi lên cuộc chạy đua về tăng hỏa lực.
Như đã nói, pháo được đưa lên thuyền ở châu Âu từ thế kỷ XIV. Thoạt
đầu, nó chỉ được đặt ở mũi thuyền với số lượng rất hạn chế, thường không
quá bốn khẩu. Đến cuối thế kỷ XV, người ta khiêng lên thuyền chiến loại
lớn rất nhiều pháo, đặt không theo một trật tự nào cả. Đến năm 1500,
nhờ phát minh trong thiết kế tàu chiến của Đê-sác-giơ (Descharges), pháo
được sắp đặt ổn định hơn, các cỡ súng khác nhau được bố trí ở những vị
trí hợp lý, số lượng súng tăng lên nhiều mà không đe dọa làm yếu thành
tàu. Tàu chiến với nhiều boong pháo là cơ sở xuất hiện các hạm đội
thường trực ở các nước phương Tây.

Ban đầu, sức mạnh hỏa lực tăng
theo khuynh hướng nâng ồ ạt số lượng pháo, quy mô pháo (cỡ pháo). Hạm
đội nước Anh tiêu biểu cho xu hướng này ở thế kỷ XVII. Tuy nhiên, người
ta không thể cứ tùy tiện tăng số lượng pháo lên bao nhiêu cũng được.

Chiến
hạm loại nhỏ nhất của Anh cũng tới 30 khẩu pháo, loại chiến hạm lớn
nhất có hơn 100 khẩu. Nổi tiếng là chiếc tàu “Chúa biển” năm 1637 có tới
132 khẩu pháo các cỡ, ước tính hơn 160 tấn sắt thép, chưa kể đến số
lượng đạn kèm theo cũng nặng gần như vậy. Chiến hạm Anh thế kỷ XVII bị
chính sức nặng của súng đạn đè lên, rất kém cơ động, tầng pháo cuối cùng
chỉ ở cách mặt nước không đầy 3 foot (1 foot tương đương 305mm).

Để
khắc phục tình trạng đó, người ta bắt đầu xác lập được những công thức
phù hợp nhất cho tương quan giữa từng loại tàu chiến với số lượng pháo
kèm theo.


 	 Quân thủy trong lịch sử chống ngoại xâm  Phanloaitau
Thông
thường pháo hạng nặng (tính theo cỡ đạn, tức cỡ nòng và trọng lượng
pháo) được bố trí ở tầng dưới cùng, loại nhẹ hơn thì bố trí ở tầng trên.
Trong Bách khoa toàn thư mới của Mỹ (New American Emcyclopedia),
Ph. Ăng-ghen có giới thiệu một bảng tổng quát phân phối pháo trên các
chiến hạm hạng nhất của Anh như sau:


 	 Quân thủy trong lịch sử chống ngoại xâm  Phanloaiphao
Đến
giữa thế kỷ XVIII, người Pháp thực hiện cuộc cải cách nữa trong đóng
tàu chiến, nhằm kéo dài tàu ra, nhờ vậy tăng số lượng pháo đặt trên các
boong. Cuối thế kỷ XIX, tàu hơi nước chạy bằng cánh quạt trong quá trình
thay thế tàu buồm, cho phép giảm dần số lượng pháo mà vẫn đảm bảo hỏa
lực, nhờ những hệ quay và hệ thống ray chuyển pháo.

Một phrê-gát (fregate) hơi nước trang bị 20 pháo có khả năng hỏa lực tương đương với 40 pháo của phrê-gát chạy buồm.

description 	 Quân thủy trong lịch sử chống ngoại xâm  EmptyRe: Quân thủy trong lịch sử chống ngoại xâm

more_horiz
privacy_tip Permissions in this forum:
You cannot reply to topics in this forum
power_settings_newLogin to reply