C5ZONE
CHÀO MỪNG BẠN ĐÃ GHÉ THĂM DIỄN ĐÀN C5Zone


Bạn nên đăng nhập hoặc đăng ký thì mới xem được những nội dung chính của DIỄN ĐÀN. Việc đăng nhập hoặc đăng ký làm thành viên không tốn phí gì đâu. bạn yên tâm.
Bạn cũng có thể cứ làm khách vẫn xem được một phần nội dung của Diễn đàn, nhưng bị nhiều hạn chế hạn chế ở các chuyên mục như: không xem được ảnh, không nhìn thấy link ...

< /form>< /div>< /div>
C5ZONE
CHÀO MỪNG BẠN ĐÃ GHÉ THĂM DIỄN ĐÀN C5Zone


Bạn nên đăng nhập hoặc đăng ký thì mới xem được những nội dung chính của DIỄN ĐÀN. Việc đăng nhập hoặc đăng ký làm thành viên không tốn phí gì đâu. bạn yên tâm.
Bạn cũng có thể cứ làm khách vẫn xem được một phần nội dung của Diễn đàn, nhưng bị nhiều hạn chế hạn chế ở các chuyên mục như: không xem được ảnh, không nhìn thấy link ...

< /form>< /div>< /div>
C5ZONE
Would you like to react to this message? Create an account in a few clicks or log in to continue.

C5ZONELog in

We Share


descriptionLịch sử ra đời các chiến thuật kinh điển trong bóng đá EmptyLịch sử ra đời các chiến thuật kinh điển trong bóng đá

more_horiz
[size=35] Lịch sử ra đời các chiến thuật kinh điển trong bóng đá
[/size]


Thời của Tiki-taka

Hơn 100 năm trước, những suy tư và ám ảnh về những tiếng tíc-tắc,
tíc-tắc phát ra đều đặn từ những chiếc đồng hồ là nguồn cảm hứng để
Albert Einstein tìm ra một ý tưởng vĩ đại mà cho đến ngày nay không phải
ai cũng hiểu: thời gian sẽ chậm lại khi đạt đến gần tốc độ ánh sáng.
Hơn 100 năm sau, tiếng tíc-tắc tíc-tắc đều đặn đó lại là nguồn cảm hứng
để Andres Monte (một cố nhà báo người Tây Ban Nha) đặt tên cho lối chơi
đan bóng nhịp nhàng, chính xác và đồng bộ như một chiếc đồng hồ đã giúp
Barcelona và Tây Ban Nha làm mưa làm gió vài năm gần đây: Tiki-taka
(tiki-taka là âm thanh tíc-tắc trong tiếng Tây Ban Nha).


Lịch sử ra đời các chiến thuật kinh điển trong bóng đá XaviandIniesta
Iniesta được xem là kim phút còn Xavi là kim giây của Tiki-taka Barcelona
Lối chơi Tiki-taka cơ bản dựa trên các yêu tố sau: sự di chuyển linh
hoạt liên tục và hoán đổi vị trí cho nhau của các cầu thủ trên hàng
công, đặc biệt là hàng tiền vệ, những đường chuyền ngắn qua lại giữa các
cầu thủ theo mọi hướng khác nhau, kết hợp đó là những pha bật tường
1-2. Tiki-taka có sự cân bằng cả trong phòng ngự lẫn tấn công, và điều
cốt lõi là tư duy ‘tôi kiểm soát bóng là tôi tồn tại’ nên các đội bóng
khi chơi Tiki-taka luôn kiểm soát bóng nhiều, vì thế không cần phải
chuyển thế qua lại giữa tấn công và phòng thủ. Họ kiểm soát bóng và dồn
ép đến khi đối phương như lạc vào mê hồn trận và gục ngã.

Ngược
dòng thời gian, loạt bài 'Bóng Đá: Trò Chơi Bất Diệt' này sẽ giúp chúng
ta tìm hiểu sự ra đời và những dấu mốc lịch sử gắn liền với những sơ
đồ, chiến thuật trong bóng đá từ lúc ra đời đến nay.

Thời của bóng đá ‘rê dắt’

Năm 1863 đánh dấu một cột mốc quan trọng trong lịch sử bóng đá hiện
đại. Sau 6 cuộc họp diễn ra từ tháng 10 đến tháng 12/1863 tại
Freemason’s Tavern (Luân Đôn, nước Anh), đại diện của một nhóm câu lạc
bộ đã tiến tới thành lập Liên đoàn bóng đá Anh (FA). Điều quan trọn hơn
là sự ra đời bộ luật chính thức đầu tiên của bóng đá, gồm 13 điều khoản
do Ebenezer Cobb Morley soạn thảo dựa trên luật chơi bóng của các sinh
viên đại học Cambridge (nên còn gọi là bộ luật Cambridge).

Một
điều thú vị là các đội bóng khi đó luôn chơi với đội hình rất nhiều tiền
đạo, vì rất khó ghi bàn trong trận đấu. Luật thứ 6 trong 13 luật, qui
định: khi một cầu thủ đá quả bóng, bất cứ đồng đội nào đứng gần khung
thành đối phương hơn đều không được tham gia (tức là trong tư thế việt
vị!). Điều này đồng nghĩa với việc những đường chuyền lên phía trước đều
bị cấm. Cách tấn công khả dĩ là thi nhau rê dắt qua đối phương, mạnh ai
nấy đi bóng khiến trận đấu lộn xộn như môn bóng bầu dục.


Lịch sử ra đời các chiến thuật kinh điển trong bóng đá 2
Nhận thấy sự bất tiện này, vào năm 1866 Luật thứ 6 được thay đổi, cho
phép các cầu thủ tuyến trên được nhận đường chuyền từ đồng đội nếu anh
ta đứng trên ít nhất 3 cầu thủ đối phương (ngày nay là 2).

Trận
đấu quốc tế đầu tiên được ghi nhận là giữa Scotland và đội tuyển Anh
tại Glasgow vào năm 1872. Tuyển Anh khi đó chủ yếu dựa vào lối đá cá
nhân và khả năng rê dắt bóng, họ ra sân với đội hình 1-2-7, chỉ để lại
1-2 cầu thủ phía sau để mồi bóng dài lên cho tuyến trên đuổi theo bóng. Ở
phía ngược lại, Scotland với đội hình 2-2-6 làm ngạc nhiên những người
láng giềng khi triển khai những đường chuyền ngắn, họ di chuyển thành
từng cặp và chuyền bóng cho nhau. Mặc dù có nhiều tiền đạo trên sân như
vậy, tỉ số chung cuộc vẫn là 0-0.

Tuy nhiên, các cầu thủ đã bắt
đầu nghĩ tới các vị trí trên sân nhiều hơn nhờ vào vũ khi mới – chuyền
bóng. Trận chung kết cúp FA năm 1883 đánh dấu sự kiện người Anh đã phát
triển những đường chuyền dài lên tầm cao hơn. Điển hình là Blackburn
giành chiến thắng dễ dàng bằng cách sử dụng những đường bóng bổng để
chuyển thế tấn công từ cánh này qua cánh kia nhờ các cầu thủ giữ được vị
trí trong đội hình.

Điều này tưởng chừng đơn giản nhưng nó
đồng thời dẫn đến sự ra đời của những kĩ năng mới: khả năng chuyền bóng
dài, kĩ năng khống chế bóng bổng, phá hoặc cắt bóng. Ngoài ra các kỹ
thuật đánh đầu, đỡ ngực, nhận bóng sống và sút vô lê cũng được bắt đầu
chú trọng phát triển.

Kim Tự Tháp (2-3-5)

Đến
những năm 1890, đội hình ưa thích ở Anh bấy giờ chính là sơ đồ 2-3-5. Mô
tả hình dạng của một cái kim tự tháp, lần đầu tiên sự cân bằng trong
tấn công và phòng ngự đã được chú trọng.


Lịch sử ra đời các chiến thuật kinh điển trong bóng đá 1
Khi phòng thủ, hai hậu vệ (Right back và Left Back) sẽ đối phó với hai
cầu thủ tấn công chạy cánh của đối thủ (Right Wing và Left Wing), trong
khi đó 3 tiền vệ giữa (3 Half Back) sẽ trông coi 3 tiền đạo còn lại.
Trong sơ đồ Kim tự tháp, cầu thủ quan trọng nhất là vị trí trọng tâm của
Kim tự tháp (Center halfback) vì có vai trò phát động tấn công cho 5
tiền đạo phía trên cũng như tổ chức hàng thủ 5 người để kèm 5 tiền đạo
của đối thủ.

Luật việt vị mới và WM (1925)


Trong khoảng thời gian từ 1880 đến 1925, do ảnh hưởng của luật việt vị
thời đó nên các đội bóng vẫn luôn chơi với đội hình có 5 tiền đạo trở
lên. Năm 1925 đánh dấu một cột mốc quan trọng nữa của bóng đá khi luật
việt vị được sửa đổi cho phù hợp hơn: cầu thủ tấn công chỉ cần đứng trên
ít nhất 2 cầu thủ đối phương khi nhận bóng (thay vì 3 như trước kia) là
hợp lệ. Sự thay đổi mang lại hiệu quả ngay lập tức, số bàn thắng tại
Giải Hạng Nhất Anh tăng lên 40% từ 1192 bàn năm 1925 lên 1703 bàn ngay
mùa giải 1926. Một con số thay đổi quá ấn tượng.

Như vậy, việc
phòng ngự phải được tăng cường hơn, và HLV của Arsenal lúc ấy là Herbert
Chapman đã nghĩ tới phải tạo ra cho một chiến thuật mới. Nhận thấy mối
đe dọa lớn nhất trong tấn công là vị trí trung phong (center forward),
vì vậy Chapman quyết định kéo vị trí tiền vệ trung tâm (center halfback)
về vị trí trung vệ (center back) để kèm tiền đạo này. Việc tạo ra vị
trí này được xem là tiền đề khai sinh ra lối chơi kèm người trong bóng
đá hiện đại, và sơ đồ này đã được sử dụng rộng rãi mãi đến 25 năm sau
đó.


Lịch sử ra đời các chiến thuật kinh điển trong bóng đá 3
Chapman qua đời năm 1934 nhưng trong khoảng thời gian 1927-1938,
Arsenal mà ông xây dựng đã vô địch giải VĐQG 5 lần và FA cúp 2 lần. Đồng
thời, WM đã trở thành sơ đồ chuẩn của các CLB ở Anh những năm 1930.

Đáng tiếc là ở 3 kì World Cup đầu tiên trước Chiến tranh thế giới thứ 2
(1930, 1934, 1938), đội tuyển Anh vì những lí do khác nhau đã tẩy chay
giải đấu không tham dự nên WM của Chapman chưa có  dịp ra biển lớn.

Ở kì World Cup đầu tiên năm 1930, hai đại diện lọt vào chung kết là
Uruguay và Achentina đều vẫn còn sử dụng đội hình Kim Tự Tháp (2-3-5) vì
lối chơi của người Nam Mỹ chú trọng vào kĩ thuật cá nhân hơn là đấu
pháp chiến thuật.

descriptionLịch sử ra đời các chiến thuật kinh điển trong bóng đá EmptyRe: Lịch sử ra đời các chiến thuật kinh điển trong bóng đá

more_horiz
Italian metodo (2-3-2-3) – Thời của người Ý

Vittorio
Pozzo – khi còn là cầu thủ chỉ là 1 cái tên tầm thường, nhưng khi nhắc
tới sự nghiệp HLV thì người Ý sẽ còn phải nhớ mãi. Tại World Cup 1934,
HLV của đội tuyển Italia này đã phát minh ra một sơ đồ mới được cải tiến
từ sơ đồ 2-3-5 (Danubian School) - một trường phái khi đó được đội
tuyển Áo, Tiệp Khắc, Hungary sử dụng phổ biến và hủy diệt mọi đối thủ,
đỉnh cao là đội tuyển Áo của HLV Hugo Meisl tại World Cup 1934 được xem
là mạnh nhất châu Âu khi đó.

Chiến thuật 2-3-5 theo trường phái
Danubian thật ra chỉ khác sơ đồ 2-3-5 Kim tự tháp ở một điểm là: tất cả
các cầu thủ đều sử dụng những đường chuyền sệt, không bao giờ sử dụng
bóng bổng. Một điểm khác biệt đó đã tạo nên một sự thay đổi lớn trong
lối chơi của các đội tuyển hùng mạnh đến từ dòng sông Danube thơ mộng
những năm 1930.

The Italian metodo (metodo trong tiếng Anh
nghĩa là method) của Vittorio Pozzo chính là phiên bản ‘chỉnh sửa’ của
trường phái Danubian. Do Pozzo không thể áp dụng nguyên sơ đồ Danubian
vào đội tuyển của ông Italia lúc đó thiếu một cầu thủ có phẩm chất để
chơi ở vị trí tiền vệ trung tâm (centre half) có vai trò vô cùng quan
trọng. Cầu thủ đá centre half của tuyển Ý có khuynh hướng phòng ngự
nhiều hơn và không có khả năng làm bóng.


Lịch sử ra đời các chiến thuật kinh điển trong bóng đá 4
Để giải quyết vấn đề này, Pozzo kéo 2 inside forward lui xuống để đảm
nhận vai trò làm bóng của centre half trong sơ đồ Danubian. Một người
không đảm đương nổi vai trò thì dùng hai người - một quyết định táo bạo
của Pozzo. Đồng thời trong chiến thuật mới này, vị trí centre half cũ
bây giờ có thể chú tâm vào vai trò phòng thủ hơn.

Tổng quan, sơ
đồ metodo của Pozzo đã giữ lại những yếu tố cơ bản của sơ đồ 2-3-5 (đặc
biệt là trong cách phòng thủ), nhưng cách sắp xếp trên hàng công lại
giống với chữ M trong sơ đồ WM của Chapman.

Metodo đã chứng tỏ
nó thích hợp một cách hoàn hảo với người Ilatia. Sơ đồ này chú trọng
việc phòng ngự một cách có hệ thống hơn và đặc biệt là vô cùng hiệu quả
trong những pha phản công nhanh nhờ vào nhiều cầu nối trong đội hình.
Nên biết, phòng ngự phản công đã trở thành món đặc sản của người Ý trong
một khoản thời gian dài.

Lý thuyết đã được xây dựng xong, giờ
là lúc ra trận. Liên tiếp trong hai kì World Cup 1934 và 1938, Metodo
của người Ý đã làm mưa làm gió bằng hai chức vô địcg thế giới liên tiếp.
Tại kì World Cup được tổ chức trên ngay sân nhà năm 1934, Metodo của
tuyển Italia đã vượt qua Danubian 2-3-5 của Tiệp Khắc với tỷ số 2-1
trong trận chung kết. Bốn năm sau trên đất Pháp cũng là một kịch bản gần
tương tự: Metodo lại vùi dập sơ đồ 2-3-5 của người Hungary với tỷ số
4-2.

Trong lịch sử các kì World Cup cho đến hiện nay mới chỉ có
hai đội từng bảo vệ được danh hiệu VĐTG: Italia (1934 và 1938) và
Brazil (1958-1962). Và nếu không có chiến tranh thế giới thứ 2 xảy ra
làm cúp thế giới gián đoạn 12 năm (từ 1938 đến 1950), chưa biết người Ý
sẽ còn làm nên điều gì…

Tổng kết lại trước khi chiến tranh nổ
ra, bóng đá thế giới ghi nhận 3 sơ đồ cùng song song tồn tại: WM – sơ đồ
tiêu chuẩn ở Anh, Italian metodo (1 phần là sơ đồ WM, 1 phần là sơ đồ
2-3-5), và cuối cùng là sơ đồ 2-3-5 Kim tự tháp vẫn còn được ưa chuộng ở
Nam Mỹ, Tiệp Khắc, Hungary, Áo.

3-3-4, Cái then cửa của người Thụy Sỹ - tiền thân của Catenaccio

Với nhiều sơ đồ chiến thuật ra đời, vai trò vị trí của các cầu thủ trên
sân cũng bắt đầu phân hóa. Tuy vậy vẫn có một sơ đồ, đúng hơn là một
người đã đi ngược lại với xu hướng chung đó.

Karl Rappan, một
HLV và cựu cầu thủ người Áo nhưng đã nhiều năm thi đấu tại Thụy Sỹ muốn
tạo ra một sơ đồ chiến thuật mà khi tấn công lẫn phòng thu đều huy động
được số cầu thủ nhiều đối phương. Nhưng thực hiện bằng cách nào khi mà
trên sân mỗi đội đều có 11 cầu thủ như nhau?

Triết lí của
Rappan là muốn hướng tới một chiến thuật linh hoạt, không cứng nhắc các
vị trí trên sân và quan trọng là không phụ thuộc quá nhiều vào trình độ
kỹ thuật của các cá nhân như WM. Nó đề cao tính đồng đội và đòi hỏi một
nền tảng thể lực sung mãn.

Trong tấn công, tất cả các cầu thủ
trong sơ đồ 3-3-4 đều dâng lên phía trước kể cả ba hậu vệ. Trong phòng
thủ, nó là sự pha trộn giữa chiến thuật phòng thủ khu vực và chiến thuật
kèm người. Khi một cầu thủ bị mất bóng, tất cả 10 cầu thủ phải lui về.
Bốn tiền đạo phía trên có nhiêm vụ gây áp lực để giảm nhịp độ tấn công
của đối thủ. Hàng tiền vệ và hậu vệ có đủ thời gian lùi về sâu hơn, đồng
thời sau đó tiền vệ trung tâm (centre half) sẽ lui về sâu hơn cả 3 hậu
vệ cuối cùng để trở thành hậu vệ thòng (deep centre back). Lúc này
trước mặt thủ môn đội nhà sẽ là một hàng phòng ngự hai tầng, ngoài ra
còn có một hậu vệ thòng chuyên bọc lót cho hàng thủ khi họ để đối phương
vượt qua. Đây cũng là điểm sáng tạo mấu chốt của Rappan. Chính vì vậy
sơ đồ này được gọi là bolt (cái then cửa) hay Swissbolt hàm ý sẽ bịt kín
hết mọi lối vào khung thành của đối thủ.


Lịch sử ra đời các chiến thuật kinh điển trong bóng đá 5
Nói thì dễ nhưng áp dụng bolt vào thực tế không dễ chút nào. Các cầu
thủ phải có khả năng di chuyển nhanh, linh hoạt, mỗi cầu thủ phải đa
năng kiêm luôn cả nhiệm vụ tấn công lẫn phòng thủ, tất cả điều này đòi
hỏi cầu thủ phải đảm bảo thể lực và sự hiểu ý với nhau. Do đó chiến
thuật này đã không được nhân rộng vào thời điểm đó vì hai yếu tố: thứ
nhất là nó bắt nguồn từ Thụy Sỹ - chưa phải là một thế lực trong bóng đá
nên chưa được nhiều người coi trọng, thứ hai là lý thuyết khó áp dụng
vào thực tế. Tuy nhiên, bolt đã khơi gợi ra ý tưởng về vị trí hậu vệ
thòng rất mới mẻ cũng như là tiền đề cho Catenaccio huyền thoại của
người Ý sau này.


Lịch sử ra đời các chiến thuật kinh điển trong bóng đá 6
Đến với đấu trường Wolrd Cup, Swissbolt của Karl Rappan đã để lại dấu
của mình. Chiến thắng 2-1 của Uruguay trước Brazil ở trận chung kết cúp
thế giới 1950 vẫn được xem là một trong những cuộc lật đổ bất ngờ lớn
nhất trong lịch sử. Năm đó người Brazil với lối chơi tấn công biến thể
từ sơ đồ WM đã cuốn phăng mọi đối thủ: 4-0 trước Mexico, 2-0 trước Nam
Tư, 7-1 trước Thụy Điển và 6-1 trước Tây Ban Nha. Tuy nhiên trên đường
vào chung kết, có một trận họ đã không thắng được ở vòng ngoài đó là
trận hòa 2-2 trước Thụy Sỹ với chiến thuật Swissbolt tài tình của
Rappan.

descriptionLịch sử ra đời các chiến thuật kinh điển trong bóng đá EmptyRe: Lịch sử ra đời các chiến thuật kinh điển trong bóng đá

more_horiz
Sơ đồ 4-2-4 (Brazil 1958)

Những điểm tinh túy nhất của
sơ đồ 4-2-4 đã được các nghệ sỹ Brazil đưa lên đỉnh cao tại cúp thế giới
1958. Thật ra sơ đồ 4-2-4 với cách bố trí 2 trung phong và 2 tiền vệ
trung tâm này đã xuất hiện trong lối chơi của Mighty Magyars - đội tuyển
Hungary huyền thoại trước đây. Tuy nhiên hơi khó nhận ra sơ đồ đó trong
cách chơi của những người Hungary vì các cầu thủ liên tục hoán đổi vị
trí cho nhau. Ngược lại, tuyển Brazil bố trí đội hình đúng như sơ đồ
4-2-4, với Vava và Pele chiếm giữ hai vị trí tiền đạo trung tâm. Đối mặt
với hai siêu tiền đạo như vậy, thực tế là không đối thủ nào chơi với
sơ đồ một trung vệ có thể chống đỡ nổi. Trong vòng 12 tháng sau khi các
vũ công Samba lên ngôi tại World Cup 1958, hầu hết các đội tuyển trên
thề giới đã chuyển sang sơ đồ 4-2-4.


Lịch sử ra đời các chiến thuật kinh điển trong bóng đá 7
Có một điểm chú ý là 4-2-4 cũng là sơ đồ đầu tiên người ta sử dụng các
con số để diễn tả đội hình. Trước đây, đơn giản người ta chỉ gọi là đội
hình Kim tự tháp (tức là 2-3-5) hay là WM (3-4-3) khi thảo luận. Cách bố
trí đội hình bằng những con số đã giúp việc huấn luyện đơn giản và khoa
học hơn.

Lần đầu tiên sau hơn 50 năm ra đời, bóng đá hiện đại
đã có một sơ đồ gồm bốn hậu vệ. Mặc dù sử dụng đến bốn hậu vệ nhưng
Brazil 1958 không phải là đội bóng chuyên về phòng ngự.Điểm mấu chốt
chính là nhờ vào sự cơ động của hai hậu vệ cánh. Khi tấn công, họ dâng
cao trở thành 2-4-4 hay thậm chí là 2-2-6 khi cần thiết. Với tám cầu thủ
tấn công, Brazil có thể xuyên thủng bất kì hàng phòng thủ nào và thực
tế là họ đã thắng tất cả các trận đấu tại cúp thế giới năm đó. Một điều
thú vị trong 4-2-4 của Brazil 1958 nữa là vai trò đặc biệt của tiền đạo
cánh trái Mario Zagallo. Khi đối thủ có bóng, Zagallo luôn là người đầu
tiên lui về hỗ trợ, với một tiền đạo rút về hàng tiền vệ, Brazil thật
ra khi phòng thủ đã chuyển qua 4-3-3.


Lịch sử ra đời các chiến thuật kinh điển trong bóng đá 1284135436-bong-da-braz
Tuyển Brazil 1958
4-2-4 của Brazil thành công vang dội tại Wolrd Cup 1958 vì họ có quá
nhiều tài năng xuất chúng trên hàng công nên các đối thủ của họ luôn
phải chịu một sức ép khủng khiếp. Ngoài cặp tiền đạo khét tiếng Pele và
Vava, Brazil năm đó còn có cặp tiền vệ trung tâm nổi tiếng Didi - Zito.
Trong khi đó, Garrincha và Mario Zagallo là những bậc thầy về kỹ thuật ở
hai cánh. Ngoài ra, những hậu vệ cánh Djalma Santos và Nilton Santos
cũng đảm bảo rất tốt giữa công và thủ. Sau chức vô địch thế giới đầu
tiên của Brazil, nhiều đội bóng khác đã áp dụng theo 4-2-4 nhưng khó
thành công vì thật sự sơ đồ này có một điểm yếu lớn là hàng tiền vệ quá
mỏng, khi buộc phải đá phòng ngự thì vô cùng bất lợi.

Sơ đồ 4-3-3 (1962)

Nhận thấy điểm yếu của sơ đồ 4-2-4 ở hàng tiền vệ, World Cup 1962 là
nơi chính thức trình làng sơ đồ 4-3-3 mà điển hình chính là nhà đương
kim vô địch thế giới Brazil. Nhận thấy vai trò đặc biệt của Mario
Zagallo, HLV của Brazil khi đó là Aimore Moreira đã quyết định rút hẳn
Zagallo từ vị trí tiền đạo cánh trái về hàng tiền vệ, hình thành sơ đồ
4-3-3 cân bằng và phù hợp với xu thế bóng đá hiện đại hơn.


Lịch sử ra đời các chiến thuật kinh điển trong bóng đá 9
Đây cũng là kì World Cup mà các đội bóng tham dự đều chú trọng vào
phòng ngự nhiều hơn trước. Số bàn thắng trung bình mỗi trận đấu tại
World Cup cũng bị suy giảm từ 5,38 bàn/trận xuống còn 2,78 bàn/trận
trong khoảng thời gian từ 1954-1962.

descriptionLịch sử ra đời các chiến thuật kinh điển trong bóng đá EmptyRe: Lịch sử ra đời các chiến thuật kinh điển trong bóng đá

more_horiz
Catenaccio (1947)

Sau
thành công của Italian metodo, người Ý tiếp tục đi theo khuynh hướng
phòng ngự và nâng nó lên một tầm cao mới trong những năm 1960: nghệ
thuật phòng ngự Catenaccio.

Chịu ảnh hưởng của sơ đồ
Swissbolt, Catenaccio (trong tiếng Ý, Catenaccio nghĩa là “cái then
cửa”) sử dụng ba hậu vệ chuyên đá kèm người (không phòng thủ khu vực).
Hậu vệ còn lại đóng vai trò libero (‘libero’ trong tiếng Ý đồng nghĩa
với ‘free’ trong tiếng Anh, nghĩa là tự do) cầu thủ này có vai trò tự
do, có óc phán đoán tốt để bọc lót cho hàng phòng ngự.


Catenaccio được xây dựng trước hết không phải để giành chiến thắng, mà
là để tránh thất bại. Lúc ấy Serie A trong một khoảng thời gian dài là
một giải đấu rất chênh lệch khi chỉ một vài đội bóng lớn thay nhau thâu
tóm các danh hiệu năm này qua năm khác. Vào năm 1947, HLV Nereo Rocco
chuyển đến dẫn dắt Triestina – một câu lạc bộ nhỏ chỉ quen với cuộc
chiến trụ hạng. Không để đối thủ ghi bàn, không thua đã là một nửa của
chiến thắng, Rocco quyết định áp dụng Catennacio (sơ đồ 1-3-3-3) vào đội
bóng nhỏ của mình và ngay lập tức thành công một cách khó tin.
Triestina đã bất ngờ giành ngôi á quân Serie A năm 1948. Và điều gì đến
cũng phải đến, rất nhiều CLB khác ở Italia đã chuyển sang sử dụng lối
chơi Catenaccio và biến Serie A trở thành một giải đấu đầy cam go.


Lịch sử ra đời các chiến thuật kinh điển trong bóng đá 10
Đó chỉ là bước khởi đầu kịch tích của một trường phái nổi tiếng bậc
nhất trong lịch sử bóng đá. Nereo Rocco là người có công mang Catenaccio
đến với nước Ý, nhưng Helenio Herrera mới là người nâng Catenaccio lên
mức nghệ thuật. Với HLV huyền thoại Herrera và Catenaccio, Inter Milan
bước vào những năm tháng đẹp nhất trong lịch sử câu lạc bộ, được trìu
mến gọi là thời kì của La Grande Inter (Inter vĩ đại). Trong suốt thời
kì tuyệt diệu đó, câu lạc bộ giành được 3 chức vô địch quốc gia vào các
năm 1963, 1965 & 1966 và vô địch Cúp C1 hai lần liên tiếp các năm
1963-1964; 1964-1965.

Rocco mang Catenaccio đến Triestian với
chủ trương giúp đội bóng nhỏ này không thua trong các trận đấu. Thế
nhưng sau thành công vang dội, bấy giờ các đội bóng lớn cũng sử dụng
Catenaccio. Nó đã trở thành một trường phái bóng đá mới, một đặc sản của
người Italia vẫn còn nổi tiếng cho đến ngày nay. Catenaccio đặc biệt
cuốn hút người Ý vì nó có thể dễ dàng chuyển từ thế phòng thủ sang tấn
công một cách nhanh chóng. Nên nhớ phòng ngự phản công là món đòn ưa
thích của người Ý trước khi có cả Catenaccio.

Lời cuối cùng:
Catenaccio không chỉ là phòng ngự. Rất nhiều người đã hiểu sai về
Catenaccio. Herrera từng nói trong một cuộc trả lời phỏng vấn của tờ
World Soccer: “Thế giới chỉ trích Catenaccio vì chẳng hiểu đầy đủ về
catenaccio của tôi. Một số người áp dụng Catenaccio thành công, nhưng
sai phương pháp. Ai dám bảo Catenaccio chỉ là phòng ngự và phản công?
Catenaccio có bài tấn công hẳn hoi, thông qua 2 hậu vệ cánh. Catenaccio
của tôi cho phép 2 hậu vệ cánh tự do tham gia tấn công. Hậu vệ cánh là
khởi nguồn các đợt tấn công trong Catenaccio.”

4-4-2 của người Anh (1966)

Người Anh nhận thức được sự ra đời của libero, nhưng họ đã tạo ra một
vị trí gần tương tự theo cách riêng của mình. Họ gọi cầu thủ này là
Sweeper (hậu vệ quét) – người sẽ di chuyển sau lưng hàng hậu vệ để kịp
thời hỗ trợ nếu có ai đó bị vượt qua.


Lịch sử ra đời các chiến thuật kinh điển trong bóng đá 12
Có thể bạn chưa biết, nhưng 4-4-2 thành công của người Anh tại cúp thế
giới năm 1966 không có chỗ cho vị trí tiền vệ cánh. Tại kì World Cup mà
đội tuyển Anh lên ngôi này, HLV khi đó là Sir Alf Ramsey sử dụng sơ đồ
4-3-3 ngoài vòng bảng. Bước vào tứ kết gặp Achentina, Sir Alf Ramsey có
sự thay đổi về mặt chiến thuật từ 4-3-3 sang 4-4-2. Tuy nhiên, nhận thấy
hai tiền vệ cánh không phải lúc nào cũng hỗ trợ phòng ngự tốt nên ông
quyết định khai tử đôi cánh, thay vào đó là các tiền vệ tấn công
(attacking midfielders), chơi bó vào giữa hơn và đặc biệt là có thể
chuyển về vai trò phòng ngự khi cần. "The Wingless Wonders", hay tên gọi
khác là đội hình ‘chim cánh cụt’ của những Bobby Charlton, Geoff Hurst,
Jimmy Greaves…đã quật ngã Achentina ở tứ kết, Bồ Đào Nha của Eusébio ở
bán kết trước khi vượt qua Tây Đức ở một trận chung kết kịch tích và
nhiều tranh cãi.


Lịch sử ra đời các chiến thuật kinh điển trong bóng đá 11

descriptionLịch sử ra đời các chiến thuật kinh điển trong bóng đá EmptyRe: Lịch sử ra đời các chiến thuật kinh điển trong bóng đá

more_horiz
Bóng Đá Tổng Lực (1970)

Total Football - ‘Bóng Đá Tổng
Lực’ là tên gọi một trường phái bóng đá vô cùng nổi tiếng mà trong đó
một cầu thủ có thể đảm trách bất kì vai trò của cầu thủ nào khác trong
đội.

Trong Bóng Đá Tổng Lực, một cầu thủ sau khi di chuyển
khỏi vị trí của anh ta sẽ được thay thế bởi một cầu thủ khác. Hệ thống
này di động liên tục, không một cầu thủ nào có vai trò cố định, bất kỳ
ai cũng có thể trở thành tiền đạo, tiền vệ hoặc hậu vệ. (chỉ duy nhất
thủ môn là vị trí cố định)


Lịch sử ra đời các chiến thuật kinh điển trong bóng đá Atotal
Sự thành công của Bóng Đá Tổng Lực phụ thuộc lớn vào khả năng thích ứng
của mỗi cầu thủ trong đội, nhất là là khả năng hoán đổi vị trí cho nhau
tùy vào tình huống cụ thể trên sân. Chiến thuật này đòi hỏi cầu thủ
phải có khả năng chơi nhiều vị trí khác nhau do đó đòi hỏi tất cả phải
có kỹ thuật cao cũng như sức bền thể lực tốt.

Nền tảng của Bóng
Đá Tổng Lực được tạo ra bởi Jack Reynolds, HLV của Ajax Amsterdam từ
các giai đoạn 1915–1925, 1928-1940 và 1945-1947.

Rinus Michels,
một cầu thủ chơi bóng dưới thời Reynolds, sau đó trở thành HLV của
Ajax, đã vận dụng những khái niệm đó để xây dựng nên trường phái "Bóng
Đá Tổng Lực". Rinus đã áp dụng chiến thuật này cho CLB Ajax và đội tuyển
Hà Lan vào những năm 1970. Nó tiếp tục được phát triển bởi Stefan
Kovacs sau khi Michels chuyển đến FC Barcelona. Tiền đạo người Hà Lan
Johan Cruyff là nhân vật tiêu biểu nhất trong hệ thống này.


Khoảng trống và việc tạo ra khoảng trống là triết lí cốt lõi của Bóng Đá
Tổng Lực. Hậu vệ của Ajax Barry Hulshoff giải thích cách mà đội bóng đã
giành ba cúp C1 liên tiếp vào năm 1971, 1972 và 1973: "Chúng tôi thảo
luận về vấn đề khoảng trốn mọi lúc mọi nơi. Johan Cruyff luôn nói về vị
trí mà mọi người nên chạy đến, nên đứng lại và khi nào họ không nên di
chuyển."

Trận chung kết cúp C1 năm 1972 đã chứng minh thứ Bóng
Đá Tổng Lực hoàn hảo. Sau chiến thắng 2-0 của Ajax trước Inter Milan,
các tờ báo khắp Châu Âu giật nhiều tít khác nhau nhưng nội dung chung
vẫn là: "Ngày tàn của Catenaccio".

Michels được mời làm HLV
của đội tuyển Hà Lan tại World Cup 1974. Hầu hết các cầu thủ của ông năm
đó chủ yếu đến từ 2 CLB Ajax và Feyenoord ngoại trừ Rob Rensenbrink là
đang chơi ở Bỉ và không quen thuộc với Bóng Đá Tổng Lực nhưng ông vẫn
được chọn và thích nghi tốt. Trong suốt giải đấu, đội tuyển Hà Lan đã
đánh bại Argentina (4-0), Đông Đức (2-0), và Brazil (2-0) để tiến đến
trận đấu cuối cùng.

Hà Lan đã tràn lên ngay từ những phút đầu
trong trận chung kết với đội tuyển Tây Đức, từ pha phát động của Cruyff,
trái bóng được các cầu thủ Hà Lan chuyền qua chuyền lại 13 lần trước
khi trở lại chân của Cruyff. Tiền đạo này vượt qua Berti Vogts và bị
phạm lỗi bởi Uli Hoeneb.
https://www.youtube.com/watch?feature=player_embedded&v=DsnK_4IWBWc

Lịch sử ra đời các chiến thuật kinh điển trong bóng đá Icon1

Bóng Đá Tổng Lực (1970)

Total Football - ‘Bóng Đá Tổng Lực’ là tên gọi một trường phái bóng đá
vô cùng nổi tiếng mà trong đó một cầu thủ có thể đảm trách bất kì vai
trò của cầu thủ nào khác trong đội.

Trong Bóng Đá Tổng Lực,
một cầu thủ sau khi di chuyển khỏi vị trí của anh ta sẽ được thay thế
bởi một cầu thủ khác. Hệ thống này di động liên tục, không một cầu thủ
nào có vai trò cố định, bất kỳ ai cũng có thể trở thành tiền đạo, tiền
vệ hoặc hậu vệ. (chỉ duy nhất thủ môn là vị trí cố định)


Lịch sử ra đời các chiến thuật kinh điển trong bóng đá Atotal
Sự thành công của Bóng Đá Tổng Lực phụ thuộc lớn vào khả năng thích ứng
của mỗi cầu thủ trong đội, nhất là là khả năng hoán đổi vị trí cho nhau
tùy vào tình huống cụ thể trên sân. Chiến thuật này đòi hỏi cầu thủ
phải có khả năng chơi nhiều vị trí khác nhau do đó đòi hỏi tất cả phải
có kỹ thuật cao cũng như sức bền thể lực tốt.

Nền tảng của Bóng
Đá Tổng Lực được tạo ra bởi Jack Reynolds, HLV của Ajax Amsterdam từ
các giai đoạn 1915–1925, 1928-1940 và 1945-1947.

Rinus Michels,
một cầu thủ chơi bóng dưới thời Reynolds, sau đó trở thành HLV của
Ajax, đã vận dụng những khái niệm đó để xây dựng nên trường phái "Bóng
Đá Tổng Lực". Rinus đã áp dụng chiến thuật này cho CLB Ajax và đội tuyển
Hà Lan vào những năm 1970. Nó tiếp tục được phát triển bởi Stefan
Kovacs sau khi Michels chuyển đến FC Barcelona. Tiền đạo người Hà Lan
Johan Cruyff là nhân vật tiêu biểu nhất trong hệ thống này.


Khoảng trống và việc tạo ra khoảng trống là triết lí cốt lõi của Bóng Đá
Tổng Lực. Hậu vệ của Ajax Barry Hulshoff giải thích cách mà đội bóng đã
giành ba cúp C1 liên tiếp vào năm 1971, 1972 và 1973: "Chúng tôi thảo
luận về vấn đề khoảng trốn mọi lúc mọi nơi. Johan Cruyff luôn nói về vị
trí mà mọi người nên chạy đến, nên đứng lại và khi nào họ không nên di
chuyển."

Trận chung kết cúp C1 năm 1972 đã chứng minh thứ Bóng
Đá Tổng Lực hoàn hảo. Sau chiến thắng 2-0 của Ajax trước Inter Milan,
các tờ báo khắp Châu Âu giật nhiều tít khác nhau nhưng nội dung chung
vẫn là: "Ngày tàn của Catenaccio".

Michels được mời làm HLV
của đội tuyển Hà Lan tại World Cup 1974. Hầu hết các cầu thủ của ông năm
đó chủ yếu đến từ 2 CLB Ajax và Feyenoord ngoại trừ Rob Rensenbrink là
đang chơi ở Bỉ và không quen thuộc với Bóng Đá Tổng Lực nhưng ông vẫn
được chọn và thích nghi tốt. Trong suốt giải đấu, đội tuyển Hà Lan đã
đánh bại Argentina (4-0), Đông Đức (2-0), và Brazil (2-0) để tiến đến
trận đấu cuối cùng.

Hà Lan đã tràn lên ngay từ những phút đầu
trong trận chung kết với đội tuyển Tây Đức, từ pha phát động của Cruyff,
trái bóng được các cầu thủ Hà Lan chuyền qua chuyền lại 13 lần trước
khi trở lại chân của Cruyff. Tiền đạo này vượt qua Berti Vogts và bị
phạm lỗi bởi Uli Hoeneb.


[MUSVN] - Clips sử dụng từ YouTube

'Cơn lốc màu da cam' vượt lên dẫn bàn với cú sút phạt penalty thành
công của Johan Neeskens chỉ 80 giây sau khi trận đấu bắt đầu và thậm chí
là người Đức còn chưa chạm được vào bóng. Sang hiệp 2, Johan Cruyff bị
chấn thương sau những pha chăm sóc quá kỹ càng của Berti Vogts và Tây
Đức đã lội ngược dòng thành công nhờ hai bàn của Paul Breitner và Gerd
Müller. (Breitner gỡ hòa trong hiệp một cũng từ cú đá penalty).

descriptionLịch sử ra đời các chiến thuật kinh điển trong bóng đá EmptyRe: Lịch sử ra đời các chiến thuật kinh điển trong bóng đá

more_horiz
Herbert Chapman với “Hậu vệ thứ ba”

Việc gài “bẫy việt vị” bắt đầu được sử dụng trong những trận đấu thuộc
giải VĐQG Anh từ những năm trước Thế chiến thứ nhất mà theo nhiều tài
liệu thì “khai sinh” ra lối chơi này là cặp trung vệ Morley-Montgomery
của đội Notts Country. Thật đơn giản: 2 hậu vệ này băng lên phía trước
để khi bóng được đối phương chuyền đi, ít nhất cũng có 1 tiền đạo đối
phương lọt vào thế việt vị, vì giữa tiền đạo này và vạch cầu môn có ít
hơn 3 cầu thủ (trong đó có thủ môn) của đội Notts Country. Trước đó,
không đội bóng nào biết sử dụng lối gài bẫy việt vị này dù thực hiện
điều này không khó. Tuy nhiên, khi biết được hiệu quả của “bẫy việt vị”
thì ngày càng có nhiều đội sử dụng hơn. Có những hậu vệ sử dụng bẫy việt
vị tài tình đến nỗi rất hiếm khi tiền đạo đối phương có thể đến gần cầu
môn của họ như cặp Frank Hudspeth và Billy McCraken của đội Newcastle
United. Vì thế, đã nảy sinh nhiều ý kiến cho rằng “bẫy việt vị” làm mất
đi tính hấp dẫn của bóng đá. Đến năm 1925, Hội đồng Luật đã quyết định
điều chỉnh luật việt vị: một cầu thủ chỉ bị xem là việt vị nếu khi đồng
đội chuyền bóng, anh ta đứng gần cầu môn hơn 2 (thay vì 3) cầu thủ đối
phương. Chỉ thay đổi như thế thôi, nhưng từ đó số bàn thắng trong các
trận đấu tăng lên hẳn, các trận đấu đã trở nên hấp dẫn hơn rất nhiều.
Chính do những bàn thắng gia tăng nhiều nên năm 1927 đã khai sinh ra vai
trò một hậu vệ thứ 3, mà người đầu tiên giữ vai trò này là tiền đạo
Charlie Buchan của đội Arsenal. Sau khi Arsenal thua Newcastle 0-7 ngay
tại Highbury, Buchan đã đề nghị HLV Herbert Chapman cần có thêm một
trung vệ. hoạt động ở giữa 2 hậu vệ truyền thống sẵn có với nhiệm vụ
canh giữ trung phong của đối phương. Nhưng để vẫn giữ nguyên lực lượng ở
tuyến giữa, chính Buchan sẽ từ bỏ vai trò tiền đạo, quay về tuyến phòng
ngự để giữ vai trò này. Herbert Chapman chấp nhận và triển khai một sơ
đồ mới để tạo ra một cuộc cách mạng về chiến thuật với lối chơi được gọi
là “hậu vệ thứ 3” (third-back).


Lịch sử ra đời các chiến thuật kinh điển trong bóng đá 150px334
Theo đó 2 hậu vệ cánh luôn ở 2 biên để ngăn những đợt tấn công từ cánh
của đối phương và điền vào chỗ trống ở giữa bằng một trung vệ, khi cần
thiết kéo 2 tiền vệ biên vào phía trong để ngăn những trung phong đối
phương. Với chiến thuật này, việc phòng thủ khu vực trở nên quan trọng
hơn phòng thủ kèm người, trừ cầu thủ giữ vai hậu vệ thứ 3, phải luôn “để
mắt” đến trung phong đối phương, dù cầu thủ này cũng phải luôn sẵn sàng
băng ra đường biên trong trường hợp một tìên đạo cánh đối phương vượt
qua được hậu vệ cánh đội mình và tiến về phía cầu môn. Khi các đội bóng
khác vẫn còn áp dụng chiến thuật 2-3-5 thì dưới sự chỉ đạo của Chapman,
Arsenal đã biết triển khai chiến thuật 3-3-4 hoặc có khi chuyển thành
3-4-3.


Lịch sử ra đời các chiến thuật kinh điển trong bóng đá 150px343
Điều chỉnh ấy đã mang lại nhiều thành công cho Arsenal và Herbert
Chapman được tôn vinh là “ông tổ” chiến thuật bóng đá Anh. Chiến thuật
này đã giúp Arsenal hạn chế được rất nhiều bàn thua, mà trong bóng đá,
càng hạn chế được bàn thua thì có khả năng thắng trận. Thành công của
Herbert Chapman đã khiến rất nhiều đội bóng khác tại Anh bắt chước, đẩy
đấu pháp 2-3-5 lùi dần vào quá khứ. Cùng với chiến thuật 3-3-4 này,
Herbert Chapman cũng đã đưa ra phương châm “phòng thủ trên hết” khi ông
dặn các cầu thủ: “Khi bước vào sân, tỷ số là 0-0, nếu chúng ta không để
lọt lưới bàn nào thì có nghĩa là khi rời sân, ít nhất chúng ta cũng được
1 điểm”. Theo phương châm ấy, Arsenal thắng rất nhiều trận đấu với tỷ
số khít khao 1-0.

descriptionLịch sử ra đời các chiến thuật kinh điển trong bóng đá EmptyRe: Lịch sử ra đời các chiến thuật kinh điển trong bóng đá

more_horiz
Một bài viết khác nói về sơ đồ MW

“Wunderteam” với một tiền vệ tấn công

Trong khi Herbert Chapman gây ảnh hưởng đến bóng đá Anh bằng tư duy
bóng đá “thực dụng” như vậy thì bên kia biển Manche, các nước vẫn còn
gắn chặt với lối chơi bóng “lãng mạn” mà đại diện tiêu biểu nhất là 2
HLV Hugo Meisl (Áo) và Vittorio Pozzo (Ý). Cả Meisl và Pozzo đều trung
thành với lối chơi có một tiền vệ tấn công ở giữa, với 2 hậu vệ cánh
chơi sâu vào giữa hơn và việc trấn giữ hai biên được giao cho 2 tiền vệ
cánh. Đó là lối chơi của đội Manchester United mà Pozzo rất ngưỡng mộ
khi ông còn là một sinh viên nghèo đam mê bóng đá thời trước Thế chiến
thứ nhất. Qua những trận đấu của Manchester United, Pozzo ngưỡng mộ
những đường chuyền dài chính xác từ tiền vệ giữa Charlie Roberts và sau
này khi làm huấn luyện viên, ông luôn khuyến khích các tiền vệ giữa của
mình hoạt động theo kiểu của Roberts. Kết quả là đội tuyển Ý của
Vittorio Pozzo đã thắng liên tiếp 2 kỳ World Cup 34 và 38. Còn Hugo
Meisl đã xây dựng được một đội tuyển Áo có lối chơi đẹp mắt và hiệu quả,
khiến đội được mang biệt danh “Wunderteam” (đội bóng tuyệt vời).

Và cũng như Pozzo, Meisl vẫn coi trọng vai trò của một tiền vệ tấn công
ở giữa và chơi rất thành công trong vai trò này ở đội tuyển Áo là
Smistik. Trong một trận đấu giao hữu diễn ra tại Chelsea, tuy lối chơi
mạnh mẽ của đội tuyển Ạnh đã thắng lối chơi đẹp mắt của đội tuyển Áo với
tỷ số 4-3, nhưng tất cả những ai có mặt hôm ấy đều đồng ý rằng các cầu
thủ Áo đã dạy cho các cầu thủ chủ nhà một bài học bóng đá. Trong lối
chơi của đội Áo, chữ W (hay M) rất dễ hình dung sự nối kết của 5 tiền
đạo phía trên gồm tả biên (left-winger), hữu biên (right-winger), tả nội
và hữu nội (inside-forwards) và trung phong (center-forward).

descriptionLịch sử ra đời các chiến thuật kinh điển trong bóng đá EmptyRe: Lịch sử ra đời các chiến thuật kinh điển trong bóng đá

more_horiz
privacy_tip Permissions in this forum:
You cannot reply to topics in this forum
power_settings_newLogin to reply