C5ZONE
CHÀO MỪNG BẠN ĐÃ GHÉ THĂM DIỄN ĐÀN C5Zone


Bạn nên đăng nhập hoặc đăng ký thì mới xem được những nội dung chính của DIỄN ĐÀN. Việc đăng nhập hoặc đăng ký làm thành viên không tốn phí gì đâu. bạn yên tâm.
Bạn cũng có thể cứ làm khách vẫn xem được một phần nội dung của Diễn đàn, nhưng bị nhiều hạn chế hạn chế ở các chuyên mục như: không xem được ảnh, không nhìn thấy link ...

< /form>< /div>< /div>
C5ZONE
CHÀO MỪNG BẠN ĐÃ GHÉ THĂM DIỄN ĐÀN C5Zone


Bạn nên đăng nhập hoặc đăng ký thì mới xem được những nội dung chính của DIỄN ĐÀN. Việc đăng nhập hoặc đăng ký làm thành viên không tốn phí gì đâu. bạn yên tâm.
Bạn cũng có thể cứ làm khách vẫn xem được một phần nội dung của Diễn đàn, nhưng bị nhiều hạn chế hạn chế ở các chuyên mục như: không xem được ảnh, không nhìn thấy link ...

< /form>< /div>< /div>
C5ZONE
Would you like to react to this message? Create an account in a few clicks or log in to continue.

C5ZONELog in

We Share


{Full} Ma câm: Ma khóc dưới hồ Tiên Đôn - Thiên Hạ Bá Xướng

power_settings_newLogin to reply

description{Full} Ma câm: Ma khóc dưới hồ Tiên Đôn - Thiên Hạ Bá Xướng - Page 4 EmptyRe: {Full} Ma câm: Ma khóc dưới hồ Tiên Đôn - Thiên Hạ Bá Xướng

more_horiz
Chương 6: Thiên ngoại phi tiên

5

Bấm vào đây để xem nội dung.
Cậu Ngốc đi trước dẫn đường cho chúng tôi vào sâu bên trong, thôn làng này được xây dựng với mục đích phòng ngự, bố trí theo trận đồ bát quái, tổng thể có ba dãy nhà tròn ba tầng lồng vào nhau, giữa mỗi dãy nhà có một hành lang, không có con đường thẳng nào thông từ đầu thôn tới cuối thôn cả, đều phải đi vòng giữa ba dãy nhà tròn đó. Rõ ràng là cậu Ngốc rất thạo đường, không cần soi đèn vẫn thành thạo mở từng cánh cửa quẻ, đi lại nhanh nhẹn trong bóng đêm.

Không ngờ, đường trong thôn lại phức tạp như vậy, chúng tôi quan sát thấy các hành lang thông tới từng gian phòng hoàn toàn giống nhau, các phòng trong thôn hầu như đều trống trơn, những bức tranh treo trên tường đã cũ nát bạc màu. Vì lâu ngày không có người ở, không lưu thông khí nên bụi bặm mạng nhện bám đầy, khắp nơi sực lên toàn mùi ẩm mốc.

Trước mái hiên nhà và xà ngang đều trạm trổ hoa văn tinh xảo, ví dụ như bát mã, tùng, trúc, nho v.v... họa tiết nho tượng trưng cho sự đông con đông cháu, cũng có họa tiết phù dung, quế hoa, vạn niên thanh, mong cầu được vạn niên phú quý, còn có phù diêu đá như Bát tiên chúc thọ, vượn trắng dâng đào v.v...

Chúng tôi sợ bị lạc đường nên không dám dừng lại xem, cứ bám sát cậu Ngốc rẽ trái rẽ phải cho tới khi đến trung tâm của thôn làng, chính là Tổ miếu. Ba dãy nhà tròn vây quanh gian nhà to nhất này, trên cửa đá khắc hình bốn con sư tử, miệng nhả ra mây, gọi là “Từ thời thổ vân”. Xung quanh khắc hình chín con hươu, có nghĩa là “Cửu lộ thông suốt”, trên tường là hoa văn mai rùa, tổ hợp sáu khung hình kết hợp với nhau thành hình khối lục lăng, vì họa tiết giống như mai rùa nên gọi là hoa văn mai rùa, mang hàm ý trường tồn vĩnh cửu, người trong nghề mới nhìn là thấy ngay hàm ý bên trong.

Cậu Ngốc đẩy cánh cửa có khắc hình bốn con sư tử đi vào bên trong, trên bệ thờ bằng đá trong Tổ miếu có một bức tượng gốm, đó là một vị tướng quân oai phong lẫm liệt, mình mặc áo giáp, đầu đội mũ giáp, lưng đeo bảo kiếm, thần thái uy nghiêm, phía sau bên trên có tấm biển “Trung nghĩa tham thiên” khiến ai bước vào đều cảm thấy kính sợ. Phía trước bức tượng có một hương án bằng đồng, đôi hạc sắt, mấy ngọn nến to. Cậu Ngốc vừa bước vào đã thắp hương dập đầu khấn vái, chúng tôi nhìn bức tượng thì biết ngay đây chính là Âm dương đoan công Chu Ngộ Cát. Đội quân đào hầm có từ thời Bắc Tống, cuối đời Minh vì tránh nạn nên Chu Ngộ Cát đành phải lui về ở ẩn, từ đó không còn đội quân đào hầm nữa. Chu Ngộ Cát tinh thông ngũ hành bát quái, phong thủy địa thế, lại là thống lĩnh của đội quân đào hầm, cũng coi như kiếm cơm bằng nghề đào đất, nghề này có chút tương đồng với nghề buôn đồ cổ của chúng tôi. Chúng tôi lại đang muốn lấy vài món đồ cổ trong thôn, đã gặp Âm dương đoan công ở đây thì không thể thất lễ, cả bọn cũng cung kính vái lạy.

Trong Tổ miếu của thôn Phi Tiên đèn đóm sáng trưng, Điếu bát quan sát xung quanh, không thấy bộ ghế đâu, Tổ miếu cũng không phải gian phòng trong bức ảnh, anh ta hỏi cậu Ngốc: “Cậu Ngốc, đây là gian phòng tronh ảnh à?”

Cậu Ngốc cũng quay sang nói với Điếu bát: “Cậu Ngốc, đây là gian phòng trong ảnh à?”

Điếu bát sực nhớ ra là không thể nói chuyện với cậu Ngốc được, có nói cũng bằng không, anh ta giơ bức ảnh lên trước mặt cậu Ngốc, chỉ mạnh vào bộ ghế trầm hương.

Cậu Ngốc cũng chỉ tay vào bức ảnh, rồi chỉ lên những chiếc bài vị bày chi chít trên ban thờ, ý nói rằng: “Không sai, chính là nơi này.”

Tôi nhìn lên bàn thờ rồi nhìn lại vào bức ảnh, chợt hiểu ra ý của cậu Ngốc, cậu ta nghĩ rằng chúng tôi hỏi những vị trưởng lão ngồi trên chiếc ghế, mà những người đó giờ đã quy tiên cả rồi, linh vị đã được chuyển vào Tổ miếu.

Điếu bát ngao ngán nói: “Không thể nói chuyện rõ ràng với thằng ngốc này được, đành chờ mai ông cụ Chu tỉnh dậy rồi tính sau.” Anh ta nhìn một lượt những đồ vật trong Tổ miếu, có vẻ tiếc rẻ nói: “Chiếc hương án bằng đồng, cặp hạc sắt này đều không vừa đâu, nhìn màu đen bóng của nó thì biết, theo cách nói của người trong nghề là màu đen gia truyền, mặc dù đồ trong này chưa chắc ông cụ Chu đã nhường lại cho chúng mình, nhưng đã tới đây rồi tôi nghĩ chúng ta không nên đi vội, mở mang tầm mắt, học thêm chút kiến thức cũng hay.”

Tôi quan sát thấy bên trong Tổ miếu bày hương án và cặp hạc, trên trần nhà còn có hình vẽ “Kim giáo thần minh”, hình vẽ rất sinh động, mặc dù chịu nhiều năm hương khói ám vào, màu sắc có phần đã bị trôi, nhưng vẫn nhìn thấy được diện mạo của vị thần đó, mắt mở to giận dữ, râu tóc rậm rạp, cơ bắp cuồn cuộn, tay cầm thanh kích dài giơ lên trời, khí thế áp đảo, tư thế trông như sắp lao ra ngoài. Vị thần ác được đặt ở vị trí trên cao, cúi đầu nhìn xuống toàn bộ Tổ miếu.

Gian phòng rộng này chính là Tổ miếu của thôn, là nơi thờ phụng tổ tiên, vậy mà trên trần lại vẽ hình một vị ác thần, không giống với những từ đường khác. Chúng tôi đã được nghe cụ Chu kể về nguồn gốc của thôn Phi Tiên, biết rằng vị ác thần trong Tổ miếu chính là để trừ tà ma, nhưng vẽ trên trần là một điều chúng tôi không ngờ tới, không lẽ miệng núi Thông Thiên lại chính là Tổ miếu này?

Điếu bát càng quan sát càng thấy nơi này không bình thường, anh ta khẳng định với chúng tôi, nơi này chắc chắn có mộ cổ. Mộ của Vương hầu quý tộc thời Hán thường xẻ núi làm mộ, hơn nữa nơi nào có mộ cổ thời Hán thì tên những ngọn núi đó thường liên quan đến các linh vật như Quy Sơn, Xà Sơn, Sư Tử Sơn v.v... không biết Phục sơn ở Thông Thiên Lĩnh có mộ cổ không?

Có thể cuối thời Minh, Thông Thiên Lĩnh từng bị động đất, người dân đã nhìn thấy phi cương ra vào ở những khe nứt của núi, Chu Ngộ Cát thống lĩnh đội quân đào hầm đã xây thôn làng ở đây, nhằm trấn áp tà khí trong mộ cổ, càng suy luận anh ta càng thấy phỏng đoán của mình có lý.

Điếu bát bắt đầu ngứa ngáy nói: “Đáng tiếc là không biết lối vào mộ cổ ở Thông Thiên Lĩnh...”

Tôi nhìn xuống sàn nhà, lối vào mộ cổ thời Hán không chừng ở ngay dưới chân chúng tôi.

description{Full} Ma câm: Ma khóc dưới hồ Tiên Đôn - Thiên Hạ Bá Xướng - Page 4 EmptyRe: {Full} Ma câm: Ma khóc dưới hồ Tiên Đôn - Thiên Hạ Bá Xướng

more_horiz
Chương 6: Thiên ngoại phi tiên

6


[size=11]Bấm vào đây để xem nội dung.
Tôi đoán Thông Thiên Lĩnh có hang động ngầm có thể đi thẳng được vào trong lòng núi, ngôi làng này nằm ngay bên trên hang động đó, trong Tổ miếu có hai tấm đá khắc hình hai con cá, thôn làng lại được bài trí theo trận đồ bát quái, ba vòng, ba tầng xây xung quanh gian từ đường này. Trong khuôn viên Tổ miếu còn có hai cái giếng, chính là hai điểm âm dương, đối chiếu với vị thần trên trần nhà thì hai chiếc giếng này có khả năng là thông xuống lòng núi.

Thôn Phi Tiên được xây dựng như vậy chủ yếu là để phòng ngự, nếu bị thiếu nước thì dù thành lũy kiên cố tới mức nào cũng không thể cố thủ được. Giếng nước được đặt trong Tổ miếu đủ thấy được tầm quan trọng của nó, nếu tôi đoán không nhầm, với bản lĩnh của Âm dương đoan công, thôn làng của ông không những tránh được thú dữ, thổ phỉ mà còn chặn luôn cả miệng núi Thông Thiên Lĩnh, chiếm một địa thế có lợi, một mũi tên trúng hai đích.

Điếu bát thì cứ khăng khăng nhận định trong lòng núi có mộ cổ thời Hán cũng có lý của anh ta bởi phàm những mộ cổ phạt núi làm quách, thì chủ nhân của ngôi mộ ắt thuộc hàng vương tôn, chư hầu. Thông Thiên Lĩnh là một ngọn núi lớn, thế núi hiểm trở, mây vờn thân núi, khiến người ta phải choáng ngợp, nếu không đầu tư tiền của và nhân lực thì khó mà đào được huyệt mộ trong lòng ngọn núi này. Nếu nói trong Thông Thiên Lĩnh có mộ cổ thời Hán thì không biết là mộ của ai, bởi hơn hai nghìn năm nay, hầu như chưa có bậc đế vương hoàng tộc nào đặt lăng tẩm tại đây. Vì thế, trong hang động dưới thôn Phi Tiên có thể có đồ cổ quý giá nhưng chưa chắc đã có mộ cổ thời Hán.

Mặt dày hỏi: “Giờ sao đại ca? Tụi mình vào Thông Thiên Lĩnh đào mộ cổ nhà Hán chứ? Nếu gặp phi cương thì phải làm sao?”

Điếu bát nạt lại: “Làm gì có chuyện cương thi biết bay, cậu không nghe ông cụ Chu nói à, cuối thời Minh ở đây có động đất, lúc đó trời rung đất chuyển, chim thú tan tác, nhân lúc ngọn núi nứt đôi, có vật thể toàn thân hôi thối đã bay ra ngoài nhưng bị sét đánh rồi bị các loại đay leo quấn chặt, thi thể đều bị chim rỉa nát rồi. Thời đó dân tình mê tín mới cho là cương thi biết bay. Cho dù đó là thứ gì thì cũng chết từ lâu rồi, giờ còn gì đáng sợ nữa đâu.”

Mặt dày nói: “Không phải là tôi sợ, tôi vốn chẳng còn hy vọng gì vào cuộc sống, không tin trên đời này sẽ có chuyện tốt đến với mình. Từ lúc gặp hai người, đi ngang qua Ô Thủ động bị lật xe rơi xuống nghĩa địa mà còn nhặt được bảo bối thì tôi biết đã đến lúc số mình phất lên rồi. Đã dám đi cùng với hai người thì tất nhiên tôi phải hạ quyết tâm theo đến cùng, chỉ cần có cửa kiếm tiền, mẹ nó chứ, chết cũng làm.”

Mặc dù cũng tham, nhưng Điếu bát không có cái gan đi đào trộm mộ, hơn nữa chưa có sự chuẩn bị, tay không làm sao mà làm việc được? Anh ta chỉ tiện mồm nói vậy, thấy Mặt dày tưởng thật liền nói: “Dựa vào ba chúng ta với vài khẩu súng thì làm sao giải quyết được việc lớn như vậy. Trước mắt phải mua được bộ ghế trầm hương của ông cụ Chu, đợi quay về rồi tính tiếp.”

Tôi nói: “Hai người bàn bạc cứ như trong thôn Phi Tiên này có mộ cổ thời Hán thật không bằng. Có mộ cổ hay không còn chưa biết kia.”

Điếu bát nói: “Cũng đúng, nhưng mà tôi cứ băn khoăn...”

Chúng tôi vừa nói đến đó thì thấy Mặt dày đang ra dấu hỏi cậu Ngốc: “Phía dưới tấm đá này là gì vậy?”

Cậu Ngốc cũng ra dấu lại, ý nói rằng: “Dưới đó chỉ có nước.”

Mặt dày không tin: “Chỉ là giếng thôi à... không có gì khác sao?”, thấy chẳng hỏi thêm được gì từ cậu Ngốc, liền nắm lấy vòng sắt được cố định trên tấm đá loay hoay tìm cách mở nắp giếng, dùng hết sức bình sinh mới dịch được chiếc nắp sang một bên, phía dưới như một cái hố sâu không nhìn thấy đáy. Trong tổ miếu có hai tấm đá như vậy, trông giống như hai miệng giếng nhưng thực chất là thông tới một nơi nào đó, bên thành giếng còn sót lại sợi dây thừng đã mục nát, đúng là giếng cổ, nhưng xem ra đã hơn trăm năm nay không có ai lấy nước ở đây, anh ta thò cổ xuống xem xét ở dưới.

Tôi nói: “Sao ông dám nhấc tấm đá ra? Nếu đây là chiếc giếng phong thủy của thôn thì ông không sợ cụ Chu liều mạng với ông à?”

Mặt dày này: “Đồ thỏ đế! Mỗi cái giếng có gì đâu mà phải sợ. Hai người qua đây xem đi, hình như dưới đó chẳng có gì cả.”

Tôi với Điếu bát tuy mồm nói đừng động đến giếng cổ nhà người ta nhưng trong lòng cũng hiếu kỳ, cầm đèn pin ra soi, cái giếng vừa rộng vừa sâu, không nhìn thấy đáy đâu cả.

Mặt dày nói: “Mọi người chẳng nói bên dưới có mộ cổ sao? Ở chỗ nào?”

Điếu bát nói: “Có mộ cổ thì cũng phải ở bên cạnh thôn, trong lòng núi cao ấy, cái giếng này cùng lắm chỉ là đường hầm thông ra núi thôi.”

Mặt dày trợn tròn mắt nhìn xuống phía dưới: “Dưới này tối thui, ai mà nhìn thấy đường hầm ở đâu.”

Tôi nói: “Ông to gan thì xuống dưới đó xem là biết liền chứ gì...”

Vừa nói xong thì thấy Mặt dày rơi tọt xuống giếng, tôi và Điếu bát ngạc nhiên, nghĩ: “Lão này cũng liều phết.”

Vừa mới nghĩ vậy thì nghe thấy tiếng Điếu bát kêu lên “Ối!” một tiếng rồi cũng rơi tọt xuống giếng. Tôi thấy tình hình không ổn, vừa quay đầu lại đã thấy cậu Ngốc đang lao về phía mình, hóa ra hai người vừa rồi đều bị cậu ta đạp xuống giếng. Sự việc xảy ra quá đột ngột khiến tôi không kịp phòng bị, tới lúc tôi nhận ra thì đã quá muộn, cậu Ngốc to béo, như một tấm phản thịt sầm sập lao tới, cậu ta cũng chẳng cần giơ chân ra, dùng bụng huých một cái là tôi đã đứng không vững, chỉ thấy tiếng gió vù vù bên tai, cơ thể rơi tự do trong không khí, rơi suốt hồi lâu mà vẫn chưa tới đáy.
[/size]

description{Full} Ma câm: Ma khóc dưới hồ Tiên Đôn - Thiên Hạ Bá Xướng - Page 4 EmptyRe: {Full} Ma câm: Ma khóc dưới hồ Tiên Đôn - Thiên Hạ Bá Xướng

more_horiz
Chương 6: Thiên ngoại phi tiên

7

Bấm vào đây để xem nội dung.
Lúc đó tôi chợt nghĩ: “Chết rồi, chắc cậu Ngốc nghĩ bọn tôi là cướp, hoặc cho rằng chúng tôi đã động vào chiếc giếng phong thủy của thôn nên mới tấn công từ sau lưng. Mà sao cái giếng của thôn Phi Tiên lại sâu thế nhỉ, không biết dưới giếng còn nước hay không, nếu rơi xuống giếng cạn...”

Chưa nghĩ hết thì tôi đã rơi tõm xuống nước, vì rơi từ rất cao nên lực đẩy rất mạnh, rơi xuống nước rồi vẫn tiếp tục chìm sâu xuống, tôi bị uống mấy ngụm nước vội nín thở để trồi lên. May trong lúc hoảng hốt vẫn cầm chặt chiếc đèn pin trong tay, xung quanh thành giếng đều bằng đá. Hai người rơi xuống trước tôi, Mặt dày thì biết bơi, nhưng Điếu bát chỉ là con vịt cạn, uống đầy một bụng nước, đang ho sặc sụa, tôi và Mặt dày dìu anh ta bơi vào phía thành giếng, bám vào khe hở nơi thành giếng rồi cả bọn đứng thở hồng hộc.

Mặt dày tức điên, chỉ lên trên miệng giếng chửi rủa một hồi, phía trên một màu đen kịt, không nhìn thấy chút ánh sáng nào của miệng giếng, chắc cậu Ngốc đã đóng nắp giếng lại rồi.

Chiếc giếng này sâu mười mét, rộng cũng phải đến mười mét, nước đỏ quạch và lạnh buốt. Chúng tôi ướt nhẹp từ đầu đến chân, tôi và Mặt dày còn chịu được, Điếu bát tuy chưa đến nỗi bị sặc chết nhưng lạnh tím tái cả môi, toàn thân run bắn, không nói thành tiếng, hai hàm răng va vào nhau cầm cập. Tôi phải túm lấy cổ áo anh ta thì anh ta mới không bị chìm xuống nước.

Tôi nói với Mặt dày: “Ông tiết kiệm sức lực đi, đừng có chửi nữa, cái giếng này quá sâu, trong thôn thì thành lũy trùng trùng lớp lớp, cửa quẻ khắp nơi, ông có đốt thuốc nổ ở đây thì trên đó cũng không nghe thấy đâu, hơn nữa thủ phạm là cậu Ngốc, ông còn mong cậu ta đến cứu bọn ta chắc?”

Mặt dày hậm hực: “Chết tiệt, tôi không chửi thằng đó thì khen nó chắc. Tôi mà được lên trên đó, tôi sẽ cho thằng Ngốc kia và lão Chu biết tay, xem hai ông cháu nhà nó chịu được mấy cú đấm của tôi!”

Tôi nói: “Ngồi đó mà bốc phét, ông lợi hại thế thật thì không đến nỗi bị cậu Ngốc đá xuống đây!”

Mặt dày nói: “Xem như tôi non đi, tôi nhìn nhầm người, không ngờ thằng ngốc kia lại xấu xa thế. Cậu cũng đâu có nhận ra mà nói tôi.”

Tôi nói: “Không nói chuyện này nữa, tìm cách ra ngoài đi, nước giếng lạnh quá, chân tôi sắp bị chuột rút rồi.”

Mặt dày nói: “Ai bảo là không chứ, tôi cũng sắp không trụ nổi rồi, đứng thêm tí nữa cả ba đều mất mạng ở đây. Hai người một thân một mình, chết cũng không sao, tôi còn có em gái đang... đợi ở nhà, tôi làm sao nhẫn tâm... nhẫn tâm để em gái tìm anh nước mắt chan hòa nhân gian sao? Có cách... cách... cách nào không, mau nghĩ... nghĩ... nghĩ đi.”

Mặt dày vừa nói vừa run lập cập, chân tay tôi cũng tê dại, lạnh không thể chịu nổi, chiếc đèn pin bị ngâm nước không biết có phải bị chập mạch không, lúc sáng lúc tối, có khi sắp hỏng rồi. Tôi sốt ruột tìm đường ra, nên cũng không buồn đấu khẩu với Mặt dày nữa. Thành giếng rất trơn, mọc đầy rêu, đừng nói ba đứa chúng tôi, ngay cả khỉ cũng không trèo lên được. Trước đây, nghe ông cụ Chu nói phía dưới thôn Phi Tiên có một cửa núi, không chừng dưới giếng này có đường hầm bí mật cũng nên, tôi trấn an mình không được cuống, định thần quan sát xung quanh, phát hiện có một vết nứt ở thành giếng, phần lớn bị chìm trong nước. Theo ánh đèn pin chiếu sáng, tôi thấy dấu vết của lớp rêu cho thấy trước đây mực nước của giếng cao hơn bây giờ rất nhiều. Vì sau này nguồn nước bị cạn nên vết nứt mới lộ ra.

Chúng tôi chỉ mong mau mau chóng chóng ra khỏi nơi nước lạnh như cắt này, thấy có đường thoát như chết đuối vớ được cọc, vội lôi Điếu bát lặn ra ngoài. Bên dưới vết nứt khá rộng rãi nhưng khoảng không không bị ngập nước chỉ tầm một nắm đấm, đi chừng năm sáu mét thì vào một huyệt động. Lúc này thì chiếc đèn pin không sáng được nữa, chúng tôi không nhìn thấy gì ở phía trước, đành mò mẫm để leo lên nhũ đá trong động, ba người lạnh run như cầy sấy, vội cởi quần áo vắt khô nước, quần áo ướt rồi cũng không thể mặc ngay được. Điếu bát cũng hồi tỉnh được đôi chút, cởi trần ngồi xổm tìm thuốc hút, nhưng thuốc bị ngâm nước đã nát hết cả, chỉ tìm thấy chiếc bật lửa cơ, tôi bảo anh ta vẩy hết nước đi, bật mấy lần, cuối cùng cũng bật được, không ngờ ánh sáng vừa lóe lên bỗng có ai đó thổi phù một cái tắt phụp, chúng tôi đều giật mình, đồng thanh hỏi: “Ai đấy?”

description{Full} Ma câm: Ma khóc dưới hồ Tiên Đôn - Thiên Hạ Bá Xướng - Page 4 EmptyRe: {Full} Ma câm: Ma khóc dưới hồ Tiên Đôn - Thiên Hạ Bá Xướng

more_horiz
Chương 6: Thiên ngoại phi tiên

8

Bấm vào đây để xem nội dung.
Mặt dày lên tiếng: “Là tôi, là tôi. Đừng có kêu lên thế, chúng ta đang trần như nhộng, bật lửa lên, ngại chết đi được.”

Tôi nói: “Đừng có làm loạn lên! Mẹ nó, ông mà còn biết xấu hổ thì mặt tôi với Điếu bát biết để đâu.”

Điếu bát nói: “Không có mảnh vải trên người đúng là không lịch sự lắm, rất ảnh hưởng tới hình ảnh của chúng ta, nhưng dù sao cũng toàn đàn ông với nhau, ở đây cũng không có người ngoài, có gì lạ đâu mà ngại!” Nói rồi, Điếu bát bật lửa lên, trước mặt chúng tôi cuối cùng cũng có được chút ánh sáng. Điếu bát nhìn thấy tiền của mình bị nước ngâm nát hết ra, cuống quýt hết cả lên: “Mạng sống của tôi, vất vả phấn đấu hơn hai mươi năm, giờ lại quay về thời trước giải phóng rồi...”

Tôi nói: “Nếu không phải Mặt dày mở giếng phong thủy của người ta ra thì cậu Ngốc đã không đánh lén tụi mình.”

Mặt dày nói: “Tôi là oan nhất đấy, cái thằng trông mặt mũi thật thà thế mà lại gian xảo, uống mất rượu Đỉnh quan của chúng ta đã không nói rồi, sợ chúng ta tính sổ với nó nên mới lừa đến Tổ miếu để diệt khẩu, không phải tôi nói đâu nhá, mà sự việc nó rõ rành rành ra như vậy. Bình thường hai người tinh tường thế, thông minh hơn cả người Do Thái mà lại không nhìn ra sao? Còn để tôi mang tội thay cho thằng ngốc kia.”

Điếu bát lạnh quá vẫn run cầm cập, lên tiếng càm ràm: “Giờ nói gì cũng muộn rồi, kẹt trong động tối thế này không chết lạnh cũng chết đói.”

Mặt dày nói: “Tôi không sợ chết, chỉ sợ không chết nổi, sống mang tội, chịu khổ cực rồi vẫn phải chết, thế mới gọi là xui xẻo, xui xẻo hơn là sau khi chết không có người lo chôn cất, thi thể vứt đây cho rắn chuột gặm nhấm.”

Điếu bát thất kinh: “Hả? Cậu nói ở đây có chuột và rắn sao?”

Mặt dày nói: “Có rắn hay không tôi không biết, nhưng chuột thì có, lúc nãy có một con vừa chạy ngang qua chân tôi”.

Bị kẹt trong hang động lạnh lẽo tối om, giơ tay ra trước mặt cũng không nhìn thấy, trên người không mảnh vải che thân, ướt nhèm nhẹp, xung quanh lại toàn chuột cống, tối om không nhìn thấy gì, bị chúng cắn phải cũng gay. Điếu bát càng nghĩ càng sợ. Sợ vì không muốn chết, vậy nên anh ta thay đổi chủ ý, không ngồi chờ chết nữa.

Tôi nói: “Chiếc giếng cổ trong tổ miếu thôn Phi Tiên thông xuống núi thì nhất định có đường đi, dù không biết là đường sống hay đường chết nhưng vẫn tốt hơn là ngồi đây chờ chết, xem ra đi được bước nào hay bước đó. Cắn răng chịu đựng một chút, không chừng có cơ hội sống sót.”

Điếu bát nói: “Nói chí lí lắm, những người vĩ đại cũng thường hành sự như vậy, biết là mạo hiểm nhưng chỉ cần quyết tâm thì vẫn qua được.”

Mặt dày nói: “Vậy chúng ta đừng nói nhiều nữa, dù sao thì tôi cũng coi thường sự sống chết rồi, không kiếm được nhiều tiền thì sống cũng vô vị.”

Ba người chúng tôi bàn xong liền đi sâu vào phía trong tìm đường, chỉ mặc mỗi quần đùi và đi giày, quần áo ướt quấn lại vắt lên vai, mỗi tội không có ánh sáng cứ phải dò dẫm trong bóng tối, nên rất khó di chuyển.

Mặt dày hỏi mượn Điếu bát chiếc bật lửa để đi trước dẫn đường, có chút ánh sáng sẽ dễ đi hơn.

Điếu bát phản đối: “Không được! Hai cậu mặc dù là bạn tốt của tôi nhưng lúc cần phê bình tôi vẫn phải phê bình, các cậu thường ngày vẫn chỉ quẹt diêm hút thuốc làm sao mà biết được sự lợi hại của chiếc bật lửa này, cái này gọi là Dupont, mạ vàng đấy, bên trong còn có cái vè đồng, mỗi lần bật lửa đều phát ra tiếng kêu, có thể mang vào khách sạn tham dự những sự kiện lớn đấy. Giờ trên người tôi chỉ còn mỗi thứ này có giá trị thôi, giao cho ai cũng không được, tự tôi cầm vẫn chắc ăn nhất.”

Mặt dày không tin: “Làm gì mà xịn thế, có cái bật lửa cũ rích, tôi có làm rơi vài lần cũng chẳng hỏng đâu.”

Điếu bát không dám đi trước dẫn đường, lại không muốn đưa bật lửa cho Mặt dày, đành phải chọn giải pháp ở giữa, đó là giao cho tôi.

Tôi nói trước với anh ta nếu đánh mất là tôi không chịu trách nhiệm. Nói rồi lần mò theo vách đá đi lên trước dẫn đường, tôi phát hiện ra vách đá ở đây lô nhô lổn nhổn không giống như vách đá thông thường, đánh bật lửa lên xem thì thấy sần sùi nổi cục như rễ cây. Cây gì mà rễ lại có thể đâm xuống sâu tới mức này, không thể tưởng tượng được cái cây phải to đến mức nào, hơn nữa trước đó cũng không thấy thôn Phi Tiên có cái cây nào to như vậy.

description{Full} Ma câm: Ma khóc dưới hồ Tiên Đôn - Thiên Hạ Bá Xướng - Page 4 EmptyRe: {Full} Ma câm: Ma khóc dưới hồ Tiên Đôn - Thiên Hạ Bá Xướng

more_horiz
Chương 7: Rồng đất

1

Bấm vào đây để xem nội dung.
Tương truyền thời Nữ Oa và Phục Hy có một cây cổ thụ rất to, rễ cuồn cuộn như rồng cuốn, đỏ au như máu, nếu không phải là cây râu rồng như trong truyền thuyết thì thân cây này cũng đã sống rất lâu đời rồi, rễ mọc khắp nơi trên núi, phần lớn đã khô héo, còn một số vẫn sống, nó đã hút hết khí, nước, đất trong dãy núi, khiến cho thôn Phi Tiên thiếu nước trầm trọng, không thể trồng trọt chăn nuôi, vật nuôi trên núi tuyệt chủng. Vụ lở núi thời cuối nhà Minh chắc cũng do rễ cây đùn ra ngoài gây nên.

Điếu bát nói: “Hình như cụ Chu có nhắc tới Âm dương đoan công Chu Ngộ Cát lựa chọn dựng thôn Phi Tiên ở đây là để trấn Thổ Long trong Thông Thiên Lĩnh, lúc đó thì cũng không kịp nghĩ Thổ Long là gì, cứ nghĩ cũng là thứ gì đó như long mạch, giờ xem ra Thổ Long chính là chỉ chỗ rễ cây này.”

Mặt dày nói: “Ông cụ Chu đúng là giống như ông tổ Chu Ngộ Cát của mình thích giả thần giả quỷ, rễ cây thì cứ nói rễ cây, lại còn nói là Thổ Long nữa”.

Tôi nói: “ ‘Long’ trong phong thủy không phải là loại rồng cưỡi mây cưỡi gió, ví dụ như long mạch trong những vùng núi, trong long mạch hẳn sẽ có long khí, cũng chính vì Thông Thiên Lĩnh có long khí nên rễ cây mới trường sinh bất tử, theo tôi nghĩ, long khí chính là địa khí, là năng lượng thoát ra từ lòng đất chứ không hoàn toàn là quan niệm mê tín. Nên nếu ví những chiếc rễ cây to có thể đẩy vỡ cả vách núi này là Thổ Long thì cũng không có gì là quá lời.”

Mặt dày không quan tâm đến Thổ Long gì hết, anh ta nói: “Nếu trong núi có ngôi mộ cổ của hoàng thất thì mình tranh thủ vào đó lấy vài thứ bảo bối, cũng không uổng công vào đây một chuyến.”

Tôi bật lửa lên soi vào mặt anh ta: “Ông cũng không nhìn lại xem bộ dạng của ông lúc này như thế nào.”

Mặt dày nói: “Nhìn gì mà nhìn, mấy thằng đàn ông ở trần có gì đâu mà nhìn.”

Tôi nói: “Ông đừng có mà nói mê, tưởng mộ thời Hán là đồ hàng mã à? Hơn nữa Thông Thiên Lĩnh chưa chắc đã có mộ cổ, theo bố cục của thôn Phi Tiên và câu chuyện mà cụ Chu kể thì từ ngoài vào trong đều rất nguy hiểm, trước mắt phải thoát thân đã, chuyện kiếm báu vật phát tài gác sang một bên đi.”

Điếu bát gật đầu lia lịa: “Mía không thể ngọt hai đầu, một là mạng sống, hai là tiền, mạng sống vẫn là trên hết. Còn rừng thì lo gì thiếu củi đốt.”

Ba người trần trùng trục, vừa nói chuyện cho đỡ sợ vừa mò mẫm tìm đường ra, trong tay chỉ còn lại một chiếc bật lửa, đi một đoạn lại bật lên một lần, lọ mọ trong bóng tối không thể nào phân biệt được đông tây nam bắc, cũng không rõ chiếc bật lửa còn dùng được bao lâu, chúng tôi cứ vậy đi theo địa hình trong động, rồi bỗng trước mắt xuất hiện một cỗ quan tài, một nửa bị chôn sâu trong gốc cây đã chết khô.

Mặt dày tiến lên đẩy nắp quan tài, anh ta nghiến răng nghiến lợi một lúc mà nắp quan tài vẫn không động đậy, cứ như người chết ở bên trong giữ lại không cho mở ra vậy.

Điếu bát sờ thấy đây là một cỗ quan tài bằng đá, bên trên phủ một lớp rêu đã chết khô, có thể sờ thấy những hoa văn khắc trên quan tài.

Tôi lấy tay che ngọn lửa, tiến lên phía trước xem xét. Hoa văn trên quan tài thể hiện nội dung rất rõ ràng, có hình ảnh một vị tướng quân mình mặc áo giáp, cưỡi ngựa, đang dương cung bắn chết một con mãnh hổ, bên cạnh có một con vượn già đang cúi đầu bái lạy. Trước đây nghe kể, Âm dương đoan công Chu Ngộ Cát đi đến vùng núi này gặp một con vượn tay dài, con vượn đó như hiểu được tiếng người, đã đến bái lạy trước ngựa của ông, dẫn ông đến một sơn cốc sâu trong rừng, bỗng ở đâu chạy đến một con hổ hết sức hung ác, cắn chết con cháu của bầy vượn, Chu Ngộ Cát giương cung bắn chết con hổ, để báo đáp lại công ơn của Chu Ngộ Cát, con vượn già đã dẫn ông đi xem bộ Thiên thư được cổ nhân khắc trên vách núi, từ đó ông thông thạo thuật âm dương. Những hình thù và hoa văn khắc trên nắp quan tài chính là mô tả lại điển tích Chu Ngộ Cát bắn hổ, được Thiên thư, hiển nhiên đây chính là chủ nhân thôn Phi Tiên - Chu Ngộ Cát.

Lúc này, ngọn lửa lay động, lúc tỏ lúc mờ chỉ còn là ánh sáng le lói nhỏ như hạt đỗ tương, xem chừng gas sắp cạn. Tôi nhìn thấy chiếc đế nhô ra hai phía bên quan tài, trông như là đĩa đèn dầu, thổi lớp bụi dày bên trên, bên dưới là đèn đối bằng dầu cá, tôi gọi hai người kia lại, tìm những sợi dây leo khô tết lại thành bó chặt, rồi nhúng vào chỗ dầu cá. Loại dầu này không sợ ướt, chúng tôi thắp lửa vào đầu đã nhúng dầu thành những ngọn đuốc, hai bó buộc vào làm một, hang động tối đen bỗng chốc sáng hẳn, nhưng tôi lại có cảm giác bất an hơn hẳn lúc còn mò mẫm trong bóng tối, nghĩ thầm trong bụng: “Tại sao với thành lũy tầng tầng lớp lớp trấn áp còn chưa đủ, đến lúc chết vẫn phải dùng quan tài của Chu Ngộ Cát chắn ở đây?”

description{Full} Ma câm: Ma khóc dưới hồ Tiên Đôn - Thiên Hạ Bá Xướng - Page 4 EmptyRe: {Full} Ma câm: Ma khóc dưới hồ Tiên Đôn - Thiên Hạ Bá Xướng

more_horiz
Chương 7: Rồng đất

2

Bấm vào đây để xem nội dung.
Mặt dày hận người đã bày trận đồ bát quái trong thôn Phi Thiên, anh ta nhặt một cục đá ném mạnh vào chiếc quan tài bị chôn một nửa vào gốc cây kia.

Điếu bát lấy lại chiếc bật lửa trong tay tôi, quay đầu lại nhìn thấy hành động của Mặt dày thì lấy làm lạ: “Đừng có làm gì quá đáng, cậu không muốn mua lại đồ cổ trong thôn nữa à? Hơn nữa Âm dương đoan công Chu Ngộ Cát lúc sinh thời có thể sai thần khiến quỷ, con cháu ông ta đời đời sung túc, đến giờ vẫn chưa tuyệt tự, xem ra không thể thất lễ được, muốn sống để ra khỏi chỗ này còn phải cầu ông ấy phù hộ cho chúng ta đấy.”

Mặt dày vẫn không phục: “Chẳng cần biết cái ông Chu Ngộ Cát bản lĩnh thế nào, giờ ông ta cũng chết rồi. Hơn nữa dựa vào đâu mà dân của ông ta đánh lén tụi mình được còn mình thì không được động đến quan tài của ông ta chứ. Mình cứ chơi lại, xem ai xấu hơn ai.” Nói rồi vẫn tiếp tục lấy đá nện vào quan tài, nhưng cỗ quan tài đá đó hết sức kiên cố, hắn nghiến răng gõ một lúc mà chẳng ăn thua gì, nhưng khe hở giữa rễ cây và quan tài thì bắt đầu chảy ra thứ nước bùn màu vàng.

Bùn dưới quan tài cứ tuôn ra không ngớt, chốc lát đã lấp đầy chỗ khe thông với đáy giếng, Điếu bát hốt hoảng hô lên: “Nước ở đâu ra mà lắm thế này?”

Tôi cũng hốt hoảng không kém, theo ánh sáng của ngọn đuốc, tôi phát hiện ra hình dáng quan tài Chu Ngộ Cát rất quái dị, vội hét to lên với Mặt dày và Điếu bát: “Không được động vào quan tài, chính nó là vật trấn long mạch của Thông Thiên Lĩnh đấy.”

Hai người đó nghe nói vậy đều ngẩn ra: “Quan tài trấn long mạch nghĩa là gì?”

Tôi giải thích: “Quan tài có hình dạng trên to dưới nhỏ gọi là Trảm long đinh, bên trong Thông Thiên Lĩnh dày đặc rễ cây, vừa khéo chắn ngang long mạch vùng này, còn cỗ quan tài của Chu Ngộ Cát giống như chiếc đinh đóng vào long mạch và chắn ngay cửa miệng mạch nước ngầm, khiến cho cây chết khô, nên Thông Thiên Lĩnh mới không xảy ra lở núi nữa.”

Mặt dày hỏi: “Thông Thiên Lĩnh có bị lở núi hay không thì liên quan gì đến Chu Ngộ Cát chứ?”

Tôi giải thích: “Năm xưa khi lở núi thì người dân nhìn thấy xác chết biết bay, ngày nay không ai còn biết sự việc đó cụ thể là thế nào, nhưng việc quan tài của Chu Ngộ Cát chắn ở đây chắc chắn có liên quan đến việc đó.”

Giọng Điếu bát run run: “Ý cậu nói là... trong núi có phi cương?”

Tôi nói: “Tôi cũng không biết, nói chung tốt nhất đừng động vào quan tài của Chu Ngộ Cát.”

Điếu bát nói: “Đúng, giữ mạng sống là trên hết, nếu không mình đừng đi vào trong núi nữa...” Anh ta đang bàn lùi, nhưng đường về đã bị bùn đất lấp mất rồi, mà nước vẫn không ngừng chảy, cứ đứng mãi ở đây cũng không ổn, chỉ còn cách đi sâu vào bên trong thôi, Điếu bát cuống quá cứ loay hoay mãi, vô tình phát hiện một đầu huyệt động có chỗ tấp đầy những tảng đá, có thể gốc cây cổ chưa chết hẳn, những khe đá có phần lỏng lẻo, có chỗ đủ để một người lách qua, chắc là có thể đi vào trong lòng ngọn núi.

Từ cuối đời Minh, khi ngọn núi nứt ra rồi khép lại thì xung quanh Thông Thiên Lĩnh chưa từng có người nhìn thấy phi cương, nên chưa chắc phía trước đã có lối ra ngoài. Nhưng lúc này chúng tôi không nghĩ được nhiều như vậy, đi vòng qua quan tài của Chu Ngộ Cát, trèo vào những khe đá, ngọn đuốc trên tay vẫn chưa tắt chứng tỏ nơi đây không khí có thể lưu thông, đến lúc này chúng tôi không tin trong Thông Thiên Lĩnh có mộ cổ nhà Hán nữa, cũng không thể tưởng tượng được nơi đó sẽ thế nào, có những thứ gì.

Điếu bát nói: “Tôi chỉ nghĩ gì nói nấy thôi, hoàn cảnh rơi xuống giếng cạn của chúng ta cũng hơi giống ‘Bầu trời trong miệng giếng’ đấy nhỉ!”

Mặt dày nói: “Có mà giống ếch ngồi đáy giếng thì có.”

Tôi nói: “Bầu trời trong miệng giếng cũng chỉ là một truyền thuyết thôi. Tương truyền có một người tiều phu bị rơi vào một cái giếng nhưng may không chết, có điều không thể trèo lên được, may mắn tìm ra được một khe nứt nơi thành giếng, liền đi sâu vào bên trong, sau khi đi ngoằn ngoèo một lúc lâu, không rõ là đã đi bao xa, bỗng tới một thung lũng phong cảnh hữu tình, hoa thơm chim hót, ở đó anh ta đã gặp các vị tiên, được cho thuốc tiên. Câu chuyện này sau đó được truyền trong dân gian và trở thành điển tích.”

Mặt dày vỡ lẽ: “Ừ! Anh em ta rơi xuống giếng ở Tổ miếu khu bảo thành này, cũng lọ mọ trong này đã lâu rồi, nếu không kiếm được món gì đó cho ra hồn thì có phải là phí mất lần xuống giếng này không.”

Ba người vừa đi vừa nói chuyện, chẳng mấy chốc đã vào đến lòng núi Thông Thiên, trong này rộng rãi, tôi đứng thẳng người nhìn xung quanh, rễ cây đã chết khô trông như những con rắn bò dưới đất, trong động phủ một lớp bụi dày, khắp nơi đều là những đám rêu dày đặc nhưng cũng đều chết khô, phía trên mờ ảo có chút ánh sáng tựa như ánh mặt trời chiếu xuống. Điếu bát tưởng rằng phía trên có khe nứt thông ra bên ngoài, anh ta bị nghiện nặng, chỉ muốn mau chóng ra ngoài để tìm thuốc hút, thế là anh ta vội vàng đu lên những cành dây leo để trèo lên trên. Tôi sợ anh ta trượt chân ngã xuống thì gay nên gọi Mặt dày đi theo. Tôi vẫn thấy có chuyện gì đó không ổn, nhưng cũng không giải thích được là không ổn ở điểm nào. Điếu bát thấy tôi còn chần chừ thì giục: “Số anh em mình vẫn chưa phải chết, theo lối này leo lên thể nào cũng có đường ra.” Tôi trả lời: “Không đúng, giờ này là nửa đêm rồi, sao lại có ánh sáng chiếu vào trong lòng núi được.”

description{Full} Ma câm: Ma khóc dưới hồ Tiên Đôn - Thiên Hạ Bá Xướng - Page 4 EmptyRe: {Full} Ma câm: Ma khóc dưới hồ Tiên Đôn - Thiên Hạ Bá Xướng

more_horiz
Chương 7: Rồng đất

3

Bấm vào đây để xem nội dung.
Điếu bát nghe nói cũng ngẩn người ra, thời gian không đúng thật, lúc cùng cậu Ngốc ở Tổ miếu thì trời vừa tối, từ lúc bị rơi xuống giếng rồi mò mẫm trong lòng núi tới giờ thì cũng chỉ tầm nửa đêm, còn lâu mới tới lúc trời sáng.

Tôi nhìn thấy phía trên như có một vầng sáng, nhưng vì xung quanh quá tối, lại có nhiều cành dây leo che phủ nên nhìn không rõ đó là thứ gì.

Mặt dày nói: “Đêm tối thì cũng có ánh trăng mà, kiểu gì thì vòm động cũng không thể tự sáng lên được, sắp tới đỉnh rồi đấy, không lẽ cậu định quay về theo đường cũ.”

Tôi với Điếu bát nghĩ cũng phải, đã tới nước này rồi cứ phải đi thôi, xem đó là cái gì.

Trong lòng núi toàn là rễ cây khô, bên ngoài là vách núi, hàng trăm rễ cây to khủng khiếp mọc dọc theo vách động, chúng tôi trèo qua những rễ cây đó lên phía trên, khắp người bị rễ cây cào xước. Mặt dày sơ ý trượt chân bong một tảng rêu khô, lộ ra hoa văn được khắc trên thành động, hình như là hình vẽ một đoàn người đang xếp hàng, nét khắc thô sơ, đơn giản, kỳ lạ ở chỗ những người này đều có thêm một con mắt dọc giữa trán, xung quanh còn có những miếng vỡ sành sứ, bên trên đều có họa tiết người ba mắt.

Điếu bát kêu lên kỳ lạ: “Tranh đá và miếng vỡ sành sứ trong động này có niên đại còn lâu hơn cả thôn Phi Thiên.”

Mặt dày nói: “Cuối thời Minh đến nay... mà còn chưa đủ lâu à?”

Điếu bát nói: “Hai ba trăm năm thì cũng như cái búng tay thôi, xem ra những bức tranh đá này cũng phải đến hai nghìn năm tuổi rồi.”

Mặt dày hỏi: “Thời đó có người ba mắt à?”

Tôi lắc đầu: “Thời nào thì cũng không có, từ xưa đến giờ con người lúc nào chẳng hai mắt một mũi, ngoại trừ Mã vương gia và Nhị lang thần.”

Điếu bát vỡ lẽ vỗ đánh bốp vào đầu nói: “Ôi giời, các cậu đoán xem tôi nghĩ ra cái gì rồi?”

Tôi nói: “Đầu anh có mọc trên người tôi đâu mà tôi biết được anh đang nghĩ gì.”

Điếu bát trả lời: “Những họa tiết trên sành sứ đều là người ba mắt cả, lại xuất hiện ở Thông Thiên Lĩnh này, tự nhiên làm tôi nhớ đến tích nước ‘Tấn diệt Cừu Vưu’. Cừu Vưu các cậu biết chứ? Còn gọi là Cừu Thủ, đó là một nước ở vùng biên Trung Nguyên, trước đây tôi từng xem qua đồ sứ của họ, họa tiết trên đó cũng toàn là người ba mắt, đây cũng có thể là đồ của họ để lại.”

Mặt dày nói: “Người Cừu Vưu à... chưa nghe thấy bao giờ, giờ còn tồn tại nữa không?”

Điếu bát trả lời: “Đã bị nước Tấn tiêu diệt từ lâu rồi, hai nghìn năm trước khi nước Tấn diệt Cừu Vưu, do thế núi hiểm trở, đại quân không vào được bên trong liền đúc một chiếc chuông đồng thật to, nói dối rằng để tặng quân vương Cừu Vưu. Quân vương Cừu Vuu không hề nghi ngờ, vui mừng nhận quà, còn cho người sửa đường làm lễ đón chuông, đến khi đường làm xong thì nước Tấn đưa quân đến diệt Cừu Vưu.”

Tôi nghĩ thầm trong bụng: “Điếu bát kiếm cơm bằng nghề này có khác, nếu không có những kiến thức đó thì làm sao mà trụ lại trong nghề này được. Cho dù tích nước Tấn diệt Cừu Vưu này có chính xác hay không, thì nơi đây cũng tương tự như một Cừu Vưu, đã bị diệt vong từ lâu rồi. Thông Thiên Lĩnh không lẽ có mộ của người Cừu Vưu thật, nếu không thì sao ở đây lại xuất hiện nhiều tranh đá và đồ sành sứ như vậy, nhưng lại không thấy hài cốt, không lẽ đều chôn ở dưới đáy động. Nghĩ đến đây, tôi bất giác nhìn xuống dưới chân, ánh đuốc chỉ soi được một diện tích nhỏ, trong lòng động rộng lớn như vậy không tài nào nhìn rõ được.”

Điếu bát nói: “Không thấy xác chết cũng không có gì lạ, cho dù trong động có quan tài xác chết thì giờ cũng hóa thành đất hết rồi.”

Tôi thấy cũng có lý, lấy dũng khí tiếp tục tiến lên phía trước, phát hiện mảnh sành sứ trong động không phải là ít, đủ các thể loại họa tiết người và thú, đồ vật hình dáng đơn giản, thô sơ, họa tiết người rất dễ nhận và chủ yếu vẫn là người ba mắt. Nhiều đồ tùy táng và tranh đá như vậy, chứng tỏ rằng lòng động là một ngôi mộ cổ, cương thi thời cuối nhà Minh chẳng lẽ là do xác chết trong động biến thành? Xác chết xảy ra thi biến như vậy có liên quan gì đến rễ cây rồng trong động không?

Mặt dày hỏi Điếu bát: “Phi cương là thứ gì vậy? Là người chết biết bay à?”

Điếu bát nói: “Theo cách nói mê tín của người xưa, những cương thi để lâu trong mộ sẽ biến thành yêu quái, có thể thở, đi lại nhẹ như gió, đó là phi cương. Nhưng cũng chỉ những người dân ít học ở nông thôn thì mới tin vào những thứ này, anh cậu lăn lộn trong giang hồ nhiều năm chưa từng thấy yêu ma quỷ quái bao giờ...”

Anh ta mới nói đến đây, bỗng có trận âm phong mang theo một mùi hôi thối thổi đến, ngọn đuốc suýt chút nữa bị tắt, tựa hồ như có một vật gì đó bay ngang qua, Điếu bát sợ quá ngã bệt xuống đất, kêu lên: “Phi cương ở Thông Thiên Lĩnh!”

description{Full} Ma câm: Ma khóc dưới hồ Tiên Đôn - Thiên Hạ Bá Xướng - Page 4 EmptyRe: {Full} Ma câm: Ma khóc dưới hồ Tiên Đôn - Thiên Hạ Bá Xướng

more_horiz
Chương 7: Rồng đất

4

Bấm vào đây để xem nội dung.
Tôi và Mặt dày thấy tình hình bất ổn, cùng giơ cao ngọn đuốc về phía cơn gió âm kia, trong ánh sáng mờ ảo của ngọn đuốc, một khuôn mặt người chết đã khô đét hiện ra lơ lửng trong không trung, khuôn mặt thì giống như cương thi, màu da đỏ, hai hốc mắt sâu hoắm, miệng phát ra tiếng kêu “khè khè” khó nghe hơn cả tiếng mèo kêu đêm, cổ nó rất dài cứ lắc lư không ngừng mang theo từng trận gió âm.

Mặc dù trước đó đã được cụ Chu kể về lai lịch của thôn Phi Thiên, nhưng vốn nghĩ trước đây người dân nhìn thấy loại cầm thú nào đó, chứ trên đời làm gì có phi cương. Phần lớn những chuyện về cương thi mà dân đào trộm mộ vẫn kể đều ở vùng Hoàng Hà nước sâu đất dày, mà đó cũng không hẳn là xác chết biết đi, chỉ do chôn sâu nên xác chết nhiều năm không phân hủy, tóc và móng tay vẫn tiếp tục mọc dài ra, nên khi bật nắp quan tài lên trông bộ dạng của xác chết rất đáng sợ, còn chuyện xác chết đi lại chỉ là người nói thì nhiều mà người gặp thì ít, cuối cùng có hay không cũng không thể biết chính xác. Theo lời các cụ, những xác chết hàng trăm năm mà biết đi thì gọi là Bạt, nghìn năm thì gọi là Hống. Bạt mọc tóc trắng hoặc tóc đen, Hống mọc tóc đỏ. Chỉ có Phật tổ mới có thể trấn áp được Kim mao Hống. Phi cương từ cổ chí kim lại càng kiếm thấy, đúng như Điếu bát nói, chỉ là cách nói mê tín của người xưa mà thôi, không thể tin được. Cũng giống như người xưa thấy nhật thực thì cứ nghĩ rằng thiên cẩu đang ăn mặt trăng, thực ra chỉ là vấn đề kiến thức mà thôi. Không chừng người dân nhìn thấy những con chim lạ ở trong rừng sâu lại cho rằng đó là phi cương. Không ngờ, chúng tôi lại gặp phi cương ở đây, cả ba gần như cứng đơ người, không đủ bình tĩnh để phân tích sao cương thi lại có thể bay được, huơ ngọn đuốc trong tay vài phát, rồi tiếp tục chạy về phía ánh sáng ở đỉnh động, hi vọng phía đó có lối thoát cho chúng tôi chạy ra khỏi nơi này.

Điếu bát bình thường nói lý nói lẽ, đến lúc xảy ra chuyện thì nhát như thỏ đế, giờ phút này anh ta chỉ lo chạy thoát thân, hận một nỗi không mọc thêm vài cái chân nữa để chạy cho nhanh, quên cả đang ở trong lòng động, rễ cây chi chít, anh ta vấp ngã dúi dụi, mồm miệng be bét máu, còn gẫy mất hai cái răng cửa.

Phi cương sợ lửa, vẫn do dự không dám tiến lại gần, một tay tôi đỡ Điếu bát dậy, một tay huơ huơ bó đuốc ra phía trước, bó đuốc đã cháy gần hết, bất ngờ dưới chân bị một lực gì đó vồ lấy khiến tôi ngã lăn ra giữa đống rễ cây, tôi buông bó đuốc ôm vội vào một chiếc rễ cây gần đó, Điếu bát thì đã sợ chết khiếp rồi nào còn tâm trí mà cứu tôi, điều không ngờ là Mặt dày rất trượng nghĩa đã chạy tới đỡ tôi lên một chiếc rễ cây, tôi kéo theo Điếu bát đã mềm nhũn cùng với Mặt dày cố leo lên chỗ cao nhất của huyệt động. Bên trong lòng núi Thông Thiên Lĩnh, khắp nơi dày đặc rễ cây khô, bên ngoài là thành núi dày hàng trăm mét, đứng bên dưới lòng động nhìn lên thấy có ánh sáng, nhưng khi lên gần đến nơi mới thấy đó là những vật tròn tròn màu trắng giống như những chiếc đèn lồng, cả ba chúng tôi trợn mắt nhìn như đều muốn hỏi: “Đó là thứ gì?”

Lúc này ngọn đuốc trong tay Mặt dày cũng sắp tắt, ngọn gió âm lại nổi lên, phi cương liền bay đến để vồ người. Nhờ vào ánh sáng trên đỉnh động, tôi thấy xung quanh có tới ba đến năm con phi cương, cứ như bầy chuồn chuồn mọc ra từ trong động vậy. Điếu bát gần như sợ vỡ cả mật, nằm bẹp dưới đất tay ôm đầu run như cầy sấy, mồm luôn miệng niệm Phật tổ phù hộ. Tôi không cam tâm buông tay chịu chết, ngặt nỗi giờ trần như nhộng, tay không tấc sắt, trong lúc vội vàng tháo luôn đôi giày dưới chân ném thẳng vào con phi cương đang bay về phía tôi. Mặt dày vốn tính hay giao chiến, giờ tình thế khẩn cấp, cầm lấy bó đuốc ném về phía bọn phi cương, chỉ nghe phịch một tiếng rơi trúng mặt một con. Nó ré lên, lùi lại phía sau chạy trốn, nhưng vì Mặt dày ném quá mạnh, bó đuốc bay thẳng lên phía trần động chạm vào đám đèn lồng trắng, thực ra đó là một lớp kén khô dễ cháy, gặp lửa liền cháy rực lên, lan sang cả đám rễ cây bên cạnh.

Đám lửa rực lên bất ngờ, có một số con phi cương không tránh kịp giống như thiêu thân gặp lửa, thành một ngọn đuốc sáng rực lăn xuống đáy động, tứ bề trong động đều bén lửa, chúng tôi ở phía trên cũng không có nơi để nấp, hơi nóng ngày một mạnh hơn, thấy như tóc trên đầu chúng tôi cũng chuẩn bị bốc cháy tới nơi rồi, mồm miệng khô rát, cảm giác mỡ đang chảy qua lớp da, chúng tôi chắc mẩm sẽ chết ở chốn này: “Bị kẹt trong hang động, lên trời không lối, xuống đất không đường, chắc sẽ thành vịt quay mất thôi.”

description{Full} Ma câm: Ma khóc dưới hồ Tiên Đôn - Thiên Hạ Bá Xướng - Page 4 EmptyRe: {Full} Ma câm: Ma khóc dưới hồ Tiên Đôn - Thiên Hạ Bá Xướng

more_horiz
Chương 7: Rồng đất

5

Bấm vào đây để xem nội dung.
Đang ở thế ngàn cân treo sợi tóc, bỗng thấy trên đỉnh động một luồng ánh sáng chiếu xuống, một người to béo đu trên sợi dây thừng đang xuống dưới động, chính là cậu Ngốc đã đẩy chúng tôi xuống giếng, cậu ta không nói lời nào, cắp lấy Điếu bát leo lên, động tác nhanh nhẹn không khác gì những chú khỉ.

Tôi và Mặt dày trong lúc tuyệt vọng thấy có cứu tinh xuất hiện cũng quên luôn món nợ cũ với cậu Ngốc, nhanh chóng theo cậu ta đu dây thừng thoát ra khỏi hang động. Đám rễ cây khô trong Thông Thiên Lĩnh bị cháy khiến đất đá rơi xuống ầm ầm, ngọn lửa vẫn tiếp tục cháy sâu vào bên trong. Lúc chúng tôi trèo lên được đỉnh núi thì vừng đông cũng vừa hửng, gió núi thổi ù ù lạnh ngắt, cụ Chu cũng ở trên núi, chính ông cụ đưa cậu Ngốc tới cứu chúng tôi. Ba đứa nhìn thấy cụ Chu và cậu Ngốc thì cơn tức giận lại trỗi dậy nhưng vì trên người không có mảnh vải che thân, bộ dạng tệ hại hết mức nên có gì thì cũng đành để quay lại thành rồi tính sau.

Cậu Ngốc cõng cụ Chu, dẫn đường cho chúng tôi xuống núi, về lại thôn Phi Tiên, lấy nước cho chúng tôi tắm rửa, rồi lại tìm mấy bộ quần áo cũ cho chúng tôi mặc, sau đó cả đám vào trong phòng cụ Chu. Lúc này, ông cụ mới kể cho chúng tôi nghe đầu đuôi câu chuyện. Vốn ở Thông Thiên Lĩnh có cây rồng, long khí rất vượng, nếu thi thể được chôn ở đây thì nghìn năm không bị phân hủy, là một mảnh đất phong thủy rất tốt. Thời Xuân Thu Chiếc Quốc, nơi đây từng có mộ cổ của người Cừu Vưu, bên trong cây rồng có loại trùng râu đỏ được người Cừu Vưu gọi là rồng đất, thờ phụng như thần. Nghe nói loại ấu trùng này sẽ nhả tơ làm kén trên cương thi, xác chết được bao bọn kỹ nhiều năm sẽ hồi sinh trở lại. Năm xưa có cương thi bay ra bên ngoài, vừa vặn lúc Âm dương đoan công Chu Ngộ Cát đi ngang qua bắt gặp, thấy đây không phải là người chết hồi sinh mà do bọn trùng râu đỏ mượn xác chết làm tổ để sinh ấu trùng, thấy chúng bay ra để hại người liền ra tay diệt trừ rồng đất, hiềm nỗi trong động có nước không vào được, cũng không thể dùng phép lửa. Chỉ còn cách xây thôn bát quái chặn phía ngoài chỗ nứt của ngọn núi, sau đó còn lệnh cho con cháu sau này ông chết thì dùng quan tài của ông để trấn long mạch, đợi khi mạch nước trong núi cạn, cây rồng chết khô thì xuống đốt hết kén của rồng đất để trừ hậu họa.

Tối qua vì quá chén mà say bí tỉ, đến khi tỉnh dậy không thấy ba người đâu, hành lý vẫn còn trong phòng, sợ mọi người đi lạc lỡ kẹt trong thôn thì nguy, cụ liền gọi cậu Ngốc tới hỏi chuyện, nghe cậu ta khua chân múa tay kể lại mới biết chuyện mọi người tới Tổ miếu đã động tới giếng phong thủy của thôn không được tùy tiện mở ra, cậu Ngốc vì thấy mọi người định mở nắp giếng nên mới đạp cả ba người ngã xuống dưới. Cụ Chu nghe kể thì thất kinh, sợ là sẽ xảy ra án mạng, bảo cậu Ngốc xuống giếng xem sao, không thấy xác chết ở dưới, lại thấy nước giếng đầy trở lại đoán là ba người đã vào Thông Thiên Lĩnh, vội gọi cậu Ngốc lên núi mở cửa động đã bị phong tỏa hơn hai trăm năm nay, kịp thời cứu mọi người ra ngoài. Cũng may địa khí trong lòng Thông Thiên Lĩnh đã tan hết, gốc cây đã chết hẳn, nếu không thì hậu quả khôn lường.

Mặt dày nghe kể thì bất bình: “Chúng tôi có gây sự với ai đâu chứ, khi không bị cậu Ngốc đá cho xuống giếng, nếu không phải chúng tôi cao số thì giờ này chắc đã toi rồi, chuyện lớn như vậy mà chỉ định vài câu nói để cho qua hết à?”

Cụ Chu lại nói: “Chúng tôi cứ phải canh giữ ở đây là để chờ tới khi cây rồng chết hẳn, nhưng đã bao năm qua chẳng ai dám xuống dưới đó để thám thính tình hình, ba vị tráng sĩ lần này xuống động đã đốt hết đám kén của rồng đất, đây cũng chính là do tổ tiên linh thiêng phù hộ, người dân thôn Phi Tiên chúng tôi rất biết ơn các cậu.”

Điếu bát lên tiếng: “Có tấm lòng đó là đã đủ. Cũng nói thật với cụ, chúng cháu là dân buôn đồ cổ, chuyến này đi cũng không dễ dàng gì, nửa đường lật xe, giờ đến cái quần cũng không có mà mặc. Vừa rồi đã giúp thôn ta một việc lớn như vậy, cụ cũng không nỡ để chúng cháu về tay không chứ ạ. Xem trong thôn có đồ gia bảo gì đó cụ có thể lấy ra vài thứ cho chúng cháu xem được không, chỉ cần là đồ có giá trị, chúng cháu sẽ mua, tuyệt không để cụ phải thiệt.”

Ông lão lại nói: “Thôn chúng tôi cũng có đến 300 tuổi rồi, nhưng ở chốn rừng sâu núi thẳm này, có thứ gì lọt vào mắt ba cậu được, trước đây thì cũng có cổ vật do tổ tiên để lại thật, nhưng mấy năm khô hạn đói kém đều mang đi đổi lương thực cả rồi.”

Nghe cụ Chu nói đem cổ vật đi đổi lương thực, chúng tôi tiếc đứt ruột, vì trông cụ thật thà chất phác không thể nói dối. Điếu bát vẫn chưa hết hy vọng: “Bộ ghế trầm hương còn trong thôn không cụ?” Cụ Chu nói: “Bộ ghế đó cũng không còn nữa, thế này đi, các cậu cứ xem trong thôn còn món gì nữa thì các cậu cứ lấy, trừ đồ trong Tổ miếu ra thì lấy thứ gì cũng được, không cần tiền, cứ coi như tôi cảm ơn các cậu.”

Từ khi vào phòng của cụ Chu, tôi đã để ý đến món đồ sứ có hình vuông như kiểu tượng một con vật, đầu tròn, đuôi tròn, móng cong. Nó được đặt trong góc nhà, bụi bẩn không bắt mắt chút nào, nhưng tôi thấy như mình đã nhìn thấy thư như vậy ở đâu đó, tôi hỏi cụ Chu: “Cái kia là gì vậy cụ?” Ông cụ hơi ngạc nhiên, trả lời: “Là chiếc gối.”

description{Full} Ma câm: Ma khóc dưới hồ Tiên Đôn - Thiên Hạ Bá Xướng - Page 4 EmptyRe: {Full} Ma câm: Ma khóc dưới hồ Tiên Đôn - Thiên Hạ Bá Xướng

more_horiz
Chương 7: Rồng đất

6

Bấm vào đây để xem nội dung.
Tôi nghĩ lại đúng là không sai, là chiếc gối sứ. Trong ngôi mộ cô gái người Khiết Đan cũng có một chiếc gối sứ hình động vật như vậy, chẳng trách tôi thấy quen quen.

Ông cụ Chu sai cậu Ngốc mang chiếc gối lại đặt trên bàn, dùng khăn ướt lau sạch lớp bụi, bốn phía của chiếc gối đều có hoa văn chi chít.

Mặt dày chẳng hiểu gì, hỏi tôi: “Gối cũng chỉ để dùng khi đi ngủ thôi mà, đúc hình động vật làm gì nhỉ?”

Tôi giải thích: “Trước đây do mê tín mà người dân nghĩ rằng đêm ngủ mà hay gặp ác mộng là liên quan tới ma quỷ, gối hình động vật có thể xua đuổi tà ma, giúp chủ nhân ngủ ngon lành hơn.”

Điếu bát thì luôn mồm khen đẹp: “Chiếc gối này hay đấy, mỗi mặt của nó đều vẽ ba giấc mơ, mọi người xem, đây là Trang Tử mộng hồ điệp, đây là Lý Bạch ban ngày nằm mơ du ngoạn núi Thiên Lão, đây là Đường Minh Hoàng mơ du ngoạn Quảng Hàn Cung, đây là Triệu Giản Tử mơ du ngoạn Quân Thiên, đây là Tần Thủy Hoàng mơ giao chiến với Hải thần, còn có Lâm xuyên tứ mộng, Mẫu đơn đình, Hàm Đan mộng, Nam Kha mộng, Tử Thoa ký...”

Cụ Chu giải thích: “Chiếc gối này gọi là gối âm dương, trên gối vẽ về mười giấc mơ, đó là mười giấc mơ nổi tiếng nhất từ xưa đến nay, trong đó còn ẩn chứa những huyền lý thiền cơ của đạo Phật, ví dụ như ‘Trang Tử mộng hồ điệp’ ý ám chỉ thật giả khó lường, ‘Hàm Đan mộng’ kể về câu chuyện chàng Lư Sinh vào ở trọ trong một điếm quán, trong lúc đợi tiểu nhị nấu cháo ngủ lúc nào không hay, trong giấc mơ Lư Sinh thấy mình trải qua cuộc sống vinh hoa phú quý sinh lão bệnh tử, tỉnh dậy thấy cháo vẫn chưa chín, từ đó thấu rõ hồng trần, ngộ đạo thành tiên.”

Điếu bát cũng lăn lộn chốn chợ âm phủ nhiều năm, anh ta không làm những vụ buôn bán lớn nhưng cũng học được nhiều thứ, từ đời Tống, gốm sứ rất thịnh hành ở dân gian, ở những lò gốm thông thường hoặc lò nổi tiếng đều có, nhưng loại gối âm dương này thì lần đầu nhìn thấy, trước đây cũng chưa từng được nghe, anh ta phỏng đoán chiếc gối này xuất hiện khoảng cuối đời Minh, vì trong đó có hình Lâm xuyên tứ mộng, bắt đầu từ đời nhà Minh mới có. Chiếc gốm được nung ở lò gốm thường nhưng chất lượng không kém gì các lò nổi tiếng, trên đó còn có hình mười giấc mơ, kiểu gì cũng là hàng độc, anh ta ôm khư khư trước ngực không chịu bỏ xuống, hỏi thăm ông cụ Chu về lai lịch chiếc gối là do tổ tiên truyền lại hay đào được trong núi?

Cụ Chu trả lời: “Chiếc gối này là do tổ tiên để lại. Âm dương đoan công Chu Ngộ Cát giỏi về giải mộng, nên đã để lại chiếc gối này, không thể xem thường chiếc gối cũ kỹ này, tuy không phải là đồ gốm ở lò nung danh tiếng, nhưng không thể có cái thứ hai như nó đâu, nếu các cậu không chê thì cứ cầm về.”

Điếu bát do dự: “Trong thôn không còn thứ gì có giá hơn chiếc gối này ạ?”

Mười giấc mơ trên chiếc gối, Mặt dày chưa từng nghe nói bao giờ, tôi cũng chỉ biết chừng một nửa nên chỉ ngồi im một bên lắng nghe, không nói được câu nào. Nhưng nghe cụ Chu kể một lúc, lại thấy hai đầu chiếc gối là phần đầu và phần đuôi của con vật, hai bên thành và phía trên mỗi bên đều có ba giấc mơ, tất cả là chín giấc mơ, còn giấc mơ cuối cùng chắc là ở phía dưới chiếc gối. Ngoài những giấc mơ của Trang Tử, Thiên Lão Sơn, Quảng Hàn Cung, Quân Thiên mộng, Hải Thần mộng và Lâm Xuyên mộng ra thì giấc mơ thứ mười cụ Chu không hề nhắc tới, lại được vẽ phía dưới gối, rất là bất thường. Tôi bảo Điếu bát lật chiếc gối lên, chỉ thấy mặt dưới có hình một thành trì, phòng ốc nghiêm ngặt, phía dưới hồ còn có một cung điện, nhưng không phải trong thành, phía trước cung điện có tượng người đá và ngựa đá đứng quay mặt vào nhau, phía trước đường vào có một tấm bia đá rất lớn được con bí hí cõng trên lưng, tựa như lăng mộ hoàng tộc.

Mặt dày hỏi Điếu bát: “Đại ca, đây là giấc mơ gì vậy?”

Điếu bát trợn mắt lên nghiên cứu một lúc, nét mặt thể hiện rõ sự ngạc nhiên: “Cái này... chưa nhìn thấy bao giờ... làm gì có lăng mộ hoàng tộc ở dưới nước nhỉ?”

Tôi cũng chưa từng nghe thấy có một thành trì nào nằm dưới nước cả, nếu thế chẳng phải có bao nhiêu người bị chết đuối sao, còn lăng mộ dưới đáy hồ thì càng chưa nghe nói bao giờ.

Cụ Chu nói: “Hồ này là có thật, theo như tổ tiên của chúng tôi truyền lại, đây là giấc mơ của Âm dương đoan công về sự việc chiếc hồ bị lấp.”

description{Full} Ma câm: Ma khóc dưới hồ Tiên Đôn - Thiên Hạ Bá Xướng - Page 4 EmptyRe: {Full} Ma câm: Ma khóc dưới hồ Tiên Đôn - Thiên Hạ Bá Xướng

more_horiz
privacy_tip Permissions in this forum:
You cannot reply to topics in this forum
power_settings_newLogin to reply