C5ZONE
CHÀO MỪNG BẠN ĐÃ GHÉ THĂM DIỄN ĐÀN C5Zone


Bạn nên đăng nhập hoặc đăng ký thì mới xem được những nội dung chính của DIỄN ĐÀN. Việc đăng nhập hoặc đăng ký làm thành viên không tốn phí gì đâu. bạn yên tâm.
Bạn cũng có thể cứ làm khách vẫn xem được một phần nội dung của Diễn đàn, nhưng bị nhiều hạn chế hạn chế ở các chuyên mục như: không xem được ảnh, không nhìn thấy link ...

< /form>< /div>< /div>
C5ZONE
CHÀO MỪNG BẠN ĐÃ GHÉ THĂM DIỄN ĐÀN C5Zone


Bạn nên đăng nhập hoặc đăng ký thì mới xem được những nội dung chính của DIỄN ĐÀN. Việc đăng nhập hoặc đăng ký làm thành viên không tốn phí gì đâu. bạn yên tâm.
Bạn cũng có thể cứ làm khách vẫn xem được một phần nội dung của Diễn đàn, nhưng bị nhiều hạn chế hạn chế ở các chuyên mục như: không xem được ảnh, không nhìn thấy link ...

< /form>< /div>< /div>
C5ZONE
Would you like to react to this message? Create an account in a few clicks or log in to continue.

C5ZONELog in

We Share


descriptionSỔ TAY C5Zer HỌC LÀM THƠ EmptySỔ TAY C5Zer HỌC LÀM THƠ

more_horiz
[size=30]THƠ LỤC BÁT[/size]




Nói đến thơ Lục Bát là nói đến một sản phẩm văn hoá tinh thần độc đáo của dân tộc Việt. Hầu hết những người làm thơ đều đã ít nhất một lần làm thơ Lục Bát. Đã có nhiều tác giả trở thành nổi tiếng với những tác phẩm thơ lục bát mà tiêu biểu nhất là Nguyễn Du với kiệt tác Truyện Kiều, sau này có Nguyễn Bính, Tố Hữu, Huy Cận, Nguyên Sa, Bùi Giáng, Nguyễn Duy, Đồng Đức Bốn… cũng đã gặt hái được thành công từ thể thơ Lục Bát.
Thiết nghĩ tìm hiểu đôi điều về thể thơ Lục Bát cũng là điều cần thiết cho cả người làm thơ và công chúng yêu thơ.


1- Thơ Lục Bát là gì?

Thơ Lục Bát là thể văn vần mỗi cặp gồm một câu sáu tiếng và một câu tám tiếng liên tiếp nhau. Thông thường bài thơ mở đầu bằng câu sáu chữ và kết thúc bằng câu tám chữ.
Một bài thơ Lục Bát thường không bị giới hạn bởi số câu, có thể gồm hai câu nhưng cũng có thể kéo dài tới hàng ngàn câu như Truyện Kiều của Nguyễn Du với 3254 câu (1627 câu lục và 1627 câu bát).


2- Thơ Lục Bát có tự bao giờ?

Người ta đã cất công đi tìm lời giải cho câu hỏi này. Song đáp án vẫn chỉ là những giả thuyết. Bởi Lục Bát xa xưa được lưu truyền tới ngày nay thông qua hình thức truyền miệng nên thật khó có được văn bản Lục Bát đầu tiên.
Nhưng có điều chắc chắn rằng: "Lục Bát là đứa con cưng của tiếng Việt, tiếng Việt đã nuôi lớn Lục Bát; đồng thời chính Lục Bát cũng đã góp phần làm cho tiếng Việt hay hơn, đẹp hơn".


3- Luật thanh trong thơ Lục Bát:

Cũng như thơ Đường luật, thơ Lục Bát tuân thủ quy tắc “nhất, tam, ngũ bất luận; tứ, nhị, lục phân minh”. Nghĩa là các tiếng 1,3,5 trong câu có thể tự do về thanh, nhưng các tiếng 2,4,6 thì phải theo luật chặt chẽ.

- Câu lục: theo thứ tự tiếng 2-4-6 là Bằng (B) – Trắc (T) – Bằng
- Câu bát: theo thứ tự tiếng 2-4-6-8 là – T – – B


Ví dụ 1:

Tôi nghe nẫu cả những chiều
         B            T                  B
Câu thơ ngã xuống đổ xiêu mái chùa.
          B            T               B            B

                                           (Cuốc kêu – Đồng Đức Bốn)


Ví dụ 2:

Nắng chia nửa bãi chiều rồi
            B               T             B

Vườn hoang trinh nữ khép đôi lá rầu.
             B                 T             B       B

                                           (Ngậm ngùi – Huy Cận)


 Thế nhưng đôi khi có thể tự do về tiếng thứ hai của câu lục hay câu bát, có thể biến nó thành thanh trắc. Hoặc là câu lục giữ nguyên, còn câu bát lại theo thứ tự T -B - T - B những câu thơ như thế này người ta gọi là Lục Bát biến thể.

Ví dụ:

Có sáo thì sáo nước trong
      T           T                B
Đừng sáo nước đục đau lòng cò con.
           T                 T              B         B
                                                    (Ca dao)


hay:

Con cò lặn lội bờ sông
          B        T          B
Gánh gạo nuôi chồng tiếng khóc nỉ non.
             T               B                   T         B
                                                      (Ca dao)


4- Cách gieo vần trong thơ Lục Bát:
* Về vần: Có hai loại vần là vần chính và vần thông.
- Vần chính còn gọi là “vần giầu” hoặc “vần sát” gồm những tiếng cùng một khuôn âm như “ao” với “sao”, “mờ” với “tơ”, “tơ” với “chờ”…


Ví dụ:

Đêm qua ra đứng bờ ao
Trông cá cá lặn, trông sao sao mờ
Buồn trông con nhện giăng 
Nhện ơi nhện hỡi, nhện chờ mối ai?
                                            (Ca dao)

- Vần thông còn gọi là “vần nghèo” hoặc “vần gượng”, gồm những tiếng hợp nhau về thanh nhưng chỉ tương tự với nhau về âm như “đình” với “cành”, “sen” với “xin”…


Ví dụ:

Hôm qua tát nước đầu đình
Bỏ quên chiếc áo trên cành hoa sen
Em được thì cho anh xin
Hay là em để làm tin trong nhà…


                                             (Ca dao)

* Gieo vần trong thể thơ Lục Bát như sau:
- Chữ cuối của câu lục phải vần với chữ thứ sáu của câu bát tiếp theo.
- Chữ cuối của câu bát phải cùng vần với chữ cuối của câu lục kế tiếp.


Ví dụ:

Lần đầu ta ghé môi hôn
Những con ve nhỏ hết hồn kêu vang
Vườn xanh, cỏ biếc, trưa vàng
Nghìn cây phượng vĩ huy hoàng trổ bông.
                                      (Nụ hôn đầu – Trần Dạ Từ)


Trong thể thơ Lục Bát biến thể cách gieo vần cũng không thay đổi, nhưng trường hợp câu bát của cặp câu có thanh là T – B – T – B  thì tiếng thứ sáu câu lục trên nó vần với tiếng thứ tư của câu đó.

Ví dụ:

Con cò mà đi ăn đêm
Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao.
                                            (Ca dao) 


 5- Tiểu đối trong thơ Lục Bát:

Đó là đối thanh trong hai tiếng thứ sáu (hoặc thứ tư) của câu bát với tiếng thứ tám câu đó. Nếu tiếng này mang thanh huyền thì tiếng kia bắt buộc là thanh ngang và ngược lại.

Ví dụ:

Đèo cao con suối ngập ngừng
Nắng thoai thoải nắng, chiều lưng lửng chiều.                                      


                                          (Rừng chiều – Nguyễn Bính)

hay:

Nhà quê có cái giếng đình
Trúc xinh cứ đứng một mình lẳng lơ.


                                                 (Đồng Đức Bốn)

6- Cách ngắt nhịp trong thơ Lục Bát:

Nhịp thơ là cái được nhận thức thông qua toàn bộ sự lặp lại có tính chu kỳ, cách quãng hoặc luân phiên theo thời gian của những chỗ ngừng, chỗ ngắt và của những đơn vị văn bản như câu thơ, khổ thơ, thậm chí đoạn thơ.
Nhịp thơ giúp người nghe, người đọc cảm nhận được thơ một cách chính xác hơn. Thơ lục bát thông thường ngắt nhịp chẵn là 2/4 (2/2/2, 4/2) hoặc 4/4 (2/2/4, 2/2/2/2, 4/2/2).


Ví dụ:

Trời mưa ướt bụi/ ướt bờ
Ướt cây/ ướt lá/ ai ngờ ướt em .


                                        (Ca dao)

 

Này chồng/ này mẹ/ này cha
Này là em ruột/ này là em dâu.


                                        (Truyện Kiều - Nguyễn Du)

Nhưng đôi khi để nhấn mạnh hay diễn tả những điều trắc trở, khúc mắc, mạnh mẽ, đột ngột, tâm trạng khác thường, bất định… thì người ta đổi thành nhịp lẻ 3/3, 1/5, 3/5…

Ví dụ:

Người quốc sắc/ kẻ thiên tài
Tình trong như đã/ mặt ngoài còn e


                                        (Truyện Kiều - Nguyễn Du)

 

Buồng không/ lặng ngắt như tờ
Dấu xe ngựa/ đã rêu lờ mờ xanh.


                                          (Truyện Kiều - Nguyễn Du)

7- Những khuyết điểm thường gặp ở một số bài Lục Bát và cách khắc phục:
Làm một bài thơ Lục Bát thì dễ, nhưng làm một bài thơ Lục Bát hay thì khó vô cùng. Nguyên nhân:
- Thơ Lục Bát là thể thơ có nhiều vần bằng. Theo luật trên thì trong mười bốn chữ của một cặp thơ thì chỉ có 5 chữ là tiếng trắc. Vì vậy, nếu không khéo, bài thơ dễ trở nên nghèo nàn về giai điệu và mang vẻ ê a của những bài vè.
- Diện tích của một cặp thơ quá rộng, trong phạm vi 14 chữ nhà thơ dễ có khuynh hướng kể lể dài dòng. Do đó dẫn tới việc lạm dụng vai trò đẩy đưa của câu lục khiến câu thơ trở thành thừa thãi và bài thơ bị loãng hoặc sử dụng vá víu bốn chữ cuối của câu bát.
Ngoài hai nguyên nhân trên, do đòi hỏi phải gieo cùng vần ở chữ cuối câu bát, chữ cuối câu lục kế tiếp, rồi chữ thứ sáu của câu bát tiếp theo khiến nhiều lúc nhà thơ bị lúng túng trong lúc chọn chữ nên dễ phải chọn chữ gượng gạo để đáp ứng quy luật. Chỉ cần vài ba chữ gượng gạo cũng đủ làm hỏng bài thơ.
Để khắc phục những khuyết điểm trên người làm thơ cần:
- Cố gắng biến câu lục thành một câu độc lập để tránh nguy cơ câu thơ bị thừa thãi.
- Thỉnh thoảng nên dùng tiểu đối trong cả hai câu, đặc biệt là câu bát. Tiểu đối là hình thức đối xứng trong một câu thơ. Theo hình thức này, câu thơ được chia thành hai vế bằng nhau, 3/3 cho câu lục và 4/4 cho câu bát.


Ví dụ:

Mai cốt cách/ tuyết tinh thần
Mỗi người một vẻ/ mười phân vẹn mười.


                                               (Truyện Kiều - Nguyễn Du)

hoặc:

Vầng trăng ai sẻ làm đôi
Nửa in gối chiếc/ nửa soi dặm trường.


                                                (Truyện Kiều - Nguyễn Du)

- Cố gắng cô đọng bài thơ, tránh khuynh hướng kéo dài lê thê.
- Không nên câu nệ quá đáng về vần, vần chính cũng hay mà vần thông cũng tốt miễn là câu thơ trôi chảy tự nhiên không bị gò bó.
- Bài thơ phải gây được cảm xúc cho người đọc.


8- Có nên làm mới thơ Lục Bát?

Làm thơ nói chung, bản chất của nó là công việc sáng tạo. Cho nên đổi mới thơ cũng là điều cần thiết. Điều này đã được thể hiện rõ qua tiến trình phát triển của thơ ca các thời kỳ.
Song đối với các thể thơ như thơ Đường luật, Lục Bát, Song Thất Lục Bát… có quy định niêm luật chặt chẽ nói không nên là chưa hẳn đúng, mà nói nên ta sẽ đứng trước yêu cầu đổi mới như thế nào, đổi mới nội dung hay đổi mới hình thức.
Hiện nay có khá nhiều người dụng công làm mới hình thức thơ Lục Bát bằng cách lên xuống dòng mang tính thủ pháp nhưng cũng có người cố tình lên xuống dòng một cách tuỳ tiện gây phản cảm cho người đọc. Có nhiều người chịu khó tìm tòi sử dụng ngôn từ mới, nhưng cũng không ít người quen sử dụng những từ ngữ sáo mòn… Về nội dung, cũng có rất nhiều người làm thơ đưa những vấn đề mới của đất nước, của thời đại vào thơ, nhưng cũng có người vẫn mải miết với chuyện muôn năm cũ…
Tôn trọng và khuyến khích mọi khả năng sáng tạo là trách nhiệm và lương tâm của toàn xã hội. Đối với thơ Lục Bát, những sáng tạo tích cực luôn được độc giả đón nhận một cách trân trọng.
“Nên hay không nên làm mới thơ Lục Bát?” Câu hỏi này bỏ ngỏ cho người làm thơ Lục Bát cũng như công chúng yêu thơ Lục Bát.


Những năm gần đây, nhiều nhà thơ, nhà văn và những người tâm huyết vơí thơ Lục Bát đã nghĩ tới một ngày nào đó thơ Lục Bát sẽ được công nhận là “Quốc thơ”, sẽ được công nhận là “Di sản văn hoá thế giới”. Như một lẽ tự nhiên, những tâm hồn Việt chân chính luôn ủng hộ ý định này.
Người thực hiện bài viết này chỉ nói lại những điều mà các học giả, các nhà thơ, nhà văn đã nói, đã viết. Hy vọng nâng thêm được phần nào tình yêu của bạn đọc dành cho thơ Lục Bát cũng là thỏa nguyện lắm rồi.


[size=30]THƠ LỤC BÁT & SONG THẤT LỤC BÁT[/size]




Thơ lục bát và thơ song thất lục bát là hai thể thơ của dân tộc Việt Nam chúng ta. Chúng ta chẳng còn xa lạ gì với thể lịc bát, vì nó là những bài ca dao hàng ngày ta vẫn nghe ông bà ngâm nga, thơ song thất lục bát thì ta đã được học trong chương trình lớp 10 ở trường phổ thông. Sau đây ta cùng tìm hiểu về cách làm hai thể thơ này để phát huy thêm một nét văn hoá của người Việt chúng ta.

I. CÁCH LÀM THƠ LỤC BÁT.

Thơ lục bát có nguồn gốc lâu đời, là một thể thơ dân tộc ta, thơ lục bát bao gồm có thể từ hai câu trở lên. Trong đó thì cứ hai câu ghép lại thành một cặp câu. Các cặp câu gồm có một câu 6 tiếng (câu lục) và một câu 8 tiếng (câu bát), và xen kẽ cứ câu lục là câu bát rồi đến cặp câu khác. Thơ lục bát tuân thủ luật về thanh và vần rất nghiêm ngặt, vì vậy tìm hiểu thơ lục bát là tìm hiểu về luật và vần của nó. Luật về thanh giúp cho câu thơ trở nên hài hoà. Các vần chính là hình thức kết dính các câu thơ lại với nhau.

1. Luật thanh trong thơ lục bát

Thơ lục bát có 2 câu chuẩn là câu lục và câu bát, cũng như thơ Đường luật, nó tuân thủ quy tắc nhất, tam, ngũ bất uận, nhị, tứ, lịc phân minh. Nghĩa là các tiếng thứ 1,3,5 trong câu có thể tự do về thanh, nhưng các tiếng thứ 2,4,6 thì phải theo luật chặt chẽ. Luật như sau:

Câu lục: theo thứ tự tiếng thứ 2-4-6 là Bằng (b) - Trắc (t) - Bằng
Câu bát: theo thứ tự tiếng thứ 2-4-6-8 là b-t-b-b


Ví dụ:

Nửa đêm qua huyện Nghi Xuân b-t-b
Bâng khuâng nhớ cụ, thương thân nàng Kiều b-t-b-b


Thế nhưng đôi khi có thể tự do về tiếng thứ hai của câu lục hay câu bát, có thể biến nó thành thanh trắc. Hoặc là câu lục giữ nguyên mà câu bát thì lại theo thứ tự t-b-t-b, những câu thơ thế này ta gọi là lục bát biến thể.

Ví dụ:

Có sáo thì sáo nước trong t-t-b
Đừng sáo nước đục đau lòng cò con t-t-b-b


hay:

Con cò lặn lội bờ sông
Gánh gạo nuôi chồng tiếng khóc nỉ non t-b-t-b


2. Cách gieo vần trong thơ lục bát

Thơ lục bát cí cách gieo vần khác với các thơ khác. Có nhiều vần được gieo trong thơ nhiều câu chứ không phải là một vần, điều này tạo cho thể lục bát tính linh hoạt về vần.

Cách gieo vần: Tiếng thứ 6 của câu lục vần với tiếng thứ sáu của câu bát kế nó. Tiếng thứ tám câu bát đó lại vần với tiếng thứ sáu của câu lục kế tiếp.

Ví dụ:

Trăm năm trong cõi người ta
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau
Trải qua một cuộc bể dâu
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng


Trong thể thơ lục bát biến thể vẫn gieo vần như vậy, nhưng trường hợp câu bát của cặp câu có thanh là t-b-t-b thì tiếng thứ sáu câu lục trên nó vần với tiếng thứ tư của câu đó.

Ví dụ:

Con cò mà đi ăn đêm
Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao.


Tiểu đối trong thơ lục bát:

Đó là đối thanh trong hai tiếng thứ 6 (hoặc thứ 4) cảu câu bát với tiếng thứ 8 câu đó. Nếu tiếng này mang thanh huyền thì tiếng kia bắt buộc là thanh ngang và ngược lại. Ví dụ:

Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.


Cách ngắt nhịp trong thơ lục bát:

Thơ lục bát thông thường ngắt nhịp chẵn, là nhịp 2/2/2, nhưng đôi khi để nhấn mạnh nên người ta đổi thành nhịp lẻ đó là nhịp 3/3. Nhịp thơ giúp người đọc và người nghe cảm nhận được thơ một cách chính xác hơn.

II. CÁCH LÀM THƠ SONG THẤT LỤC BÁT

Thơ song thất lục bát là thơ gồm có 4 câu đi liền với nhau, trong đó là hai câu 7 tiếng (câu thất 1 và câu thất 2), kế tiếp là câu lục và câu bát.

Về luật vần ở câu lục và bát thì hoàn toàn là giống thơ lục bát, không đề cập đến. Tôi chỉ đề cập đến hai câu thất. Luât thanh không phải ở các từ 2-4-6 như các thể thơ khác mà lại chú ý vào các tiếng 3-5-7.

Câu thất 1: các tiếng 3-5-7 theo thứ tự là t-b-t
Câu thất 2: các tiếng 3-5-7 theo thứ tự là b-t-b
Các tiếng 1-2-4-6 tự do về thanh.


Ví dụ:

Lòng này gửi gió đông có tiện t-b-t
Nghìn vàng xin gửi đến non yên b-t-b


Về cách gieo vần cũng khác các thể thơ khác. Các thể thơ khác chỉ gieo vần ở thanh bằng, nhưng thơ song thất lục bát gieo vần ở cả tiếng thanh trắc và thanh bằng.

Tiếng thứ 7 của câu thất 1 thanh trắc vần với tiếng thứ 5 thanh trắc của câu thất 2. Tiếng thứ 7 của câu thất 2 thanh bằng vần với tiếng thứ 6 câu lục kế.

Ví dụ:

Lòng này gửi gió đông có tiện
Nghìn vàng xin gửi đến non Yên
Non Yên dù chẳng tới miền
Nhớ chàng đằng đẳng đường lên bằng trời.


Trong bài thơ có nhiều câu thơ song thất lục bát thì để nối hai nhóm câu lại về vần thì ta lấy tiếng thứ 8 thanh bằng của câu bát vần với tiếng thứ 5 thanh bằng của câu thất 1 kế tiếp.

Ví dụ:

Lòng này gửi gió đông có tiện
Nghìn vàng xin gửi đến non Yên
Non Yên dù chẳng tới miền
Nhớ chàng đằng đẳng đường lên bằng trời
Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu...


Cách ngắt nhịp trong 2 câu thất của thơ này là nhịp lẻ, tức là nhịp 3/4 hay là 2/1/4.

[size=30]THƠ THẤT NGÔN TỨ TUYỆT[/size]




Thơ tứ tuyệt đã có từ lâu, trước khi có thơ thất ngôn và ngũ ngôn bát cú. Đầu tiên, thơ tứ tuyệt có nghĩa khác với nghĩa hiện tại: “tứ” là bốn và “tuyệt” có nghĩa là tuyệt diệu. Bài thơ chỉ có 4 câu mà diễn tả đầy đủ ý nghĩa của tác giả muốn trình bày nên người ta mới gọi 4 câu thơ đó là tứ tuyệt. 
Tuy nhiên, sau khi có thơ thất ngôn và ngũ ngôn bát cú (luật thi) vào đời nhà Đường, thì thơ tứ tuyệt lại phải được làm theo quy tắc về niêm, vần, luật, đối của lối thơ thất ngôn hay ngũ ngôn bát cú. Vì vậy, sau nầy người ta giải thích chữ “tuyệt” là ngắt hay dứt. Nghĩa là thơ tứ tuyệt là do người ta làm theo cách ngắt lấy 4 câu trong bài bát cú để làm ra bài tứ tuyệt. Do đó niêm, vần, luật, đối của bài tứ tuyệt phải tùy theo cách ngắt từ bài bát cú mà thành. 
Thơ tứ tuyệt có 2 thể là luật trắc vần bằng và luật bằng vần bằng. 
Mỗi thể đều có một Bảng Luật coi như "công thức" căn bản mà người làm thơ phải tuân theo. 

1. TỨ TUYỆT LUẬT TRẮC VẦN BẰNG (không đối) 

Sau đây là Bảng Luật Thơ Tứ Tuyệt Luật Trắc Vần Bằng: 

BẢNG LUẬT: 

T - T - B - B - T - T - B (vần) 
B - B - T - T - T - B - B (vần) 
B - B - T - T - B - B - T 
T - T - B - B - T - T - B (vần) 

Ghi chú: Đây là bản chính luật (sẽ có bảng luật bất luận sau). Mới đầu chúng ta nên cố gắng giữ theo chính luật để âm điệu bài thơ được hay. Tuy có bị gò bó nhưng sau nầy sẽ dễ cho chúng ta hơn (trước khó sau dễ). 
Các chữ cuối của các câu 1-2-4 bắt buộc phải cùng vần với nhau. 

Bài thơ thí dụ để minh họa: 

1. 
Thuở ấy tuy còn tuổi ấu thơ 
Mà sao vẫn nhớ đến bây giờ 
Xuân về nũng nịu đòi mua pháo 
Để đón giao thừa thỏa ước mơ 

Hoàng Thứ Lang 


2. 
Dõi mắt tìm ai tận cuối trời 
Thu về chiếc lá ngậm ngùi rơi 
Cay cay giọt lệ sầu chan chứa 
Mộng ước tình ta đã rã rời 

Hoàng Thứ Lang 


3. 
Một nửa vầng trăng rụng xuống cầu 
Đôi mình cách trở bởi vì đâu 
Canh tàn khắc lụn hồn tê tái 
Đối bóng đèn khuya nuốt lệ sầu 

Hoàng Thứ Lang 


2. TỨ TUYỆT LUẬT BẰNG VẦN BẰNG (không đối) 

Sau đây là Bảng Luật Thơ Tứ Tuyệt Luật Trắc Vần Bằng: 

BẢNG LUẬT: 

B - B - T - T - T - B - B (vần) 
T - T - B - B - T - T - B (vần) 
T - T - B - B - B - T - T 
B - B - T - T - T - B - B (vần) 


Ghi chú: Đây là bản chính luật (sẽ có bảng luật bất luận sau). Mới đầu chúng ta nên cố gắng giữ theo chính luật để âm điệu bài thơ được hay. Tuy có bị gò bó nhưng sau nầy sẽ dễ cho chúng ta hơn (trước khó sau dễ). 
Các chữ cuối của các câu 1-2-4 bắt buộc phải cùng vần với nhau. 

Bài thơ thí dụ để minh họa: 

1. 
Đôi mình cách biển lại ngăn sông 
Dõi mắt tìm nhau nhỏ lệ hồng 
Ngắm ánh trăng thề thương kỷ niệm 
Đêm trường thổn thức nhớ mênh mông 

Hoàng Thứ Lang 


2. 
Đêm nghe tiếng gió nhớ miên man 
Mộng ước tình ta đã lụn tàn 
Thánh thót hiên ngoài mưa rả rích 
Mi buồn lệ ứa mãi không tan 

Hoàng Thứ Lang 


3. 
Rừng phong nhuộm tím cả khung trời 
Lá úa lìa cành gió cuốn rơi 
Lối cũ đường xưa em đếm bước 
Miên man kỷ niệm đã xa vời 

Hoàng Thứ Lang 
Sau đây là Luật về Điệu thơ: 

Điệu thơ là cách xếp đặt các tiếng trong câu thơ sao cho êm tai dễ đọc để bài thơ có âm hưởng du dương trầm bổng như nhạc điệu. 

Điệu thơ gồm có 3 phần chính như sau: 

1. Nhịp điệu: thơ ĐL nhịp chẵn, ngắt nhịp 2 hoặc 4 tiếng trọn nghĩa. 

2. Âm điệu: nên làm theo chính luật để bài thơ có âm điệu êm tai trầm bổng. 

3. Vần điệu: nên gieo vần ở cuối các câu 1-2-4-6-8 xen kẻ tiếng không có dấu và tiếng có dấu huyền để bài thơ khi đọc lên nghe du dương trầm bổng như điệu nhạc. Ngoài ra chúng ta nên cố gắng gieo vần chính vận. Sau nầy khi "nhuyễn" rồi chúng ta có thể theo thông vận và theo luật bất luận. Muốn cho bài thơ có âm điệu hay thì tiếng thứ 4 và tiếng thứ 7 của những câu luật trắc vần bằng không nên dùng trùng một thanh bằng. Nghĩa là nếu tiếng thứ 4 không dấu thì tiếng thứ 7 phải dấu huyền và ngược lại. Tuy nhiên nếu không tìm được từ nào khác có ý nghĩa hay hơn thì chúng ta dùng trùng cũng được mà vẫn không bị sai luật thơ.

THƠ TỨ TUYỆT VẦN BẰNG - 2 VẦN 

Thơ Tứ Tuyệt Vần Bằng 2 vần cũng có hai thể: 
- Luật Trắc Vần Bằng. 
- Luật Bằng Vần Bằng. 

Đầu tiên, chúng ta cùng nhau tìm hiểu về Tứ Tuyệt Luật Trắc Vần Bằng - 2 vần. 

Sau đây là Bảng Luật Thơ Tứ Tuyệt Luật Trắc Vần Bằng - 2 vần: 

1. THƠ TỨ TUYỆT LUẬT TRẮC VẦN BẰNG - 2 VẦN (KHÔNG ĐỐI) 

BẢNG LUẬT: 


T - T - B - B - B - T - T 
B - B - T - T - T - B - B (vần) 
B - B - T - T - B - B - T 
T - T - B - B - T - T - B (vần) 


Ghi chú: Đây là bản chính luật (sẽ có bảng luật bất luận sau). Mới đầu chúng ta nên cố gắng giữ theo chính luật để âm điệu bài thơ được hay. Tuy có bị gò bó nhưng sau nầy sẽ dễ cho chúng ta hơn. 
Các tiếng cuối của các câu 2 và 4 bắt buộc phải cùng vần với nhau. 

Trước khi đi vào chi tiết của bài Tứ Tuyệt Luật Trắc Vần Bằng - 2 vần, chúng ta thử cùng nhau ngắt bài thơ Thất Ngôn Bát Cú ra thành nhiều bài Tứ Tuyệt để "nghiên cứu" và phân tích. 

Bài thơ Thất Ngôn Bát Cú có thể ngắt thành 4 bài thơ Tứ Tuyệt theo 4 cách như sau: 
- Bài 1: 4 câu đầu (1-4). 
- Bài 2: 4 câu cuối (5-8 ). 
- Bài 3: 4 câu giữa (3-6). 
- Bài 4: 2 câu đầu (1-2) và 2 câu cuối (7-8 ). 

Thí dụ: bài thơ sau đây: 

THĂNG LONG THÀNH HOÀI CỔ 

Tạo hóa gây chi cuộc hí trường 
Đến nay thắm thoát mấy tinh sương 
Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo 
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương 
Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt 
Nước còn cau mặt với tang thương 
Ngàn xưa gương cũ soi kim cổ 
Cảnh đấy người đây luống đoạn trường 

Bà Huyện Thanh Quan 


Ngắt ra: 

1. 
Tạo hóa gây chi cuộc hí trường 
Đến nay thắm thoát mấy tinh sương 
Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo 
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương 

2. 
Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt 
Nước còn cau mặt với tang thương 
Ngàn xưa gương cũ soi kim cổ 
Cảnh đấy người đây luống đoạn trường 

3. 
Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo 
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương 
Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt 
Nước còn cau mặt với tang thương 

4. 
Tạo hóa gây chi cuộc hí trường 
Đến nay thắm thoát mấy tinh sương 
Ngàn xưa gương cũ soi kim cổ 
Cảnh đấy người đây luống đoạn trường 

Nhận xét: 

Bài 1: Tứ Tuyệt 3 vần bằng. 
Bài 2: Tứ Tuyệt 2 vần bằng. 
Bài 3: Tứ Tuyệt 2 vần bằng. 
Bài 4: Tứ Tuyệt 3 vần bằng. 

Như vậy bài thơ Tứ Tuyệt có loại 3 vần và có loại 2 vần. 

Phân tích kỹ hơn, chúng ta nhận thấy một bài thơ Thất Ngôn Bát Cú Đường Luật là do hai bài thơ Tứ Tuyệt ghép lại mà thành, 4 câu đầu là Tứ Tuyệt 3 vần, 4 câu sau là Tứ Tuyệt 2 vần. Điểm đặc biệt đáng lưu ý là 4 câu giữa (3-4-5-6) đối nhau từng cặp một (câu 3-4 đối nhau, câu 5-6 đối nhau) theo phép đối thơ loại 7 chữ (còn gọi là đối ngẫu). 
Nếu chỉ làm thơ Tứ Tuyệt thường thì chúng ta không cần làm có đối. Nếu làm thơ Thất Ngôn Bát Cú thì bắt buộc phải có đối như đã nói trên. 

Dừng lại ở thơ Tứ Tuyệt, chúng ta có thể làm nhiều bài thơ Tứ Tuyệt cùng diễn tả chung một ý (một nội dung) gọi là Tứ Tuyệt Trường Thiên, dài bao nhiêu cũng được, nhưng nên ngắt ra từng đoạn, mỗi đoạn 4 câu. Muốn làm loại 3 vần cũng được (như bài thơ Hai Sắc Hoa Ti-gôn của T.T.Kh.). Muốn làm loại 2 vần cũng được (như bài thơ Hoa Trắng Thôi Cài Trên Áo Tím của Kiên Giang Hà Huy Hà). Muốn làm lẫn lộn (mixed) vừa 3 vần vừa 2 vần cũng được. 

Bây giờ trở lại ý chính của bài Tứ Tuyệt 2 vần bằng. Vì chưa làm thơ Thất Ngôn Bát Cú nên chúng ta chỉ làm thơ Tứ Tuyệt không có đối (tương tự như loại 3 vần mà chúng ta đã làm ở bài 1). 

Vậy chúng ta cùng nhau bắt đầu làm bài thực hành 

BẢNG LUẬT: 


T - T - B - B - B - T - T 
B - B - T - T - T - B - B (vần) 
B - B - T - T - B - B - T 
T - T - B - B - T - T - B (vần) 


Bài thơ thí dụ để minh họa: 

1. 
Xác pháo còn vương màu mực tím 
Thư tình vẫn thắm chữ yêu thương 
Nhưng ai lại nỡ quên thề ước 
Nước mắt nào vơi nỗi đoạn trường 

Hoàng Thứ Lang 


2. 
Đọc áng thơ sầu sa nước mắt 
Nghe lời giã biệt giọt châu rơi 
Trời cao nỡ đoạn tình đôi lứa 
Kẻ nhớ người thương khổ cả đời 

Hoàng Thứ Lang 


3. 
Yến phượng lìa đàn ai oán thảm 
Uyên ương lẻ bạn ngẩn ngơ sầu 
Đôi ta cách trở ngàn sông núi 
Ngắm mảnh trăng tàn lệ thấm bâu 

Hoàng Thứ Lang 


4. 
Nếu chẳng cùng em chung lối mộng 
Anh vào cửa Phật nguyện tu hành 
Chuông chiều mõ sớm quên tình lụy 
Gởi lại am thiền mái tóc xanh 

Hoàng Thứ Lang 


2. TỨ TUYỆT LUẬT BẰNG VẦN BẰNG - 2 VẦN (KHÔNG ĐỐI) 

BẢNG LUẬT: 

B - B - T - T - B - B - T 
T - T - B - B - T - T - B (vần) 
T - T - B - B - B - T - T 
B - B - T - T - T - B - B (vần) 


Ghi chú: Đây là bản chính luật (sẽ có bảng luật bất luận sau). Mới đầu chúng ta nên cố gắng giữ theo chính luật để âm điệu bài thơ được hay. Tuy có bị gò bó nhưng sau nầy sẽ dễ cho chúng ta hơn. 
Các tiếng cuối của các câu 2 và 4 bắt buộc phải cùng vần với nhau. 


Bài thơ thí dụ để minh họa: 

1. 
Hè về đỏ thắm màu hoa phượng 
Ánh mắt buồn tênh buổi bãi trường 
Gạt lệ chia tay người mỗi ngã 
Âm thầm cố nén giọt sầu thương 

Hoàng Thứ Lang 


2. 
Trên sông khói sóng buồn hiu hắt 
Dõi mắt phương trời nhớ cố hương 
Trắng xóa màn sương trời chớm lạnh 
Thương ai khắc khoải đoạn can trường 

Hoàng Thứ Lang

[size=30]THƠ THẤT NGÔN BÁT CÚ[/size]



Thơ thất ngôn bát cú là loại thơ mỗi bài có 8 câu và mỗi câu 7 chữ, tức là chỉ có 56 chữ trong một bài thơ thất ngôn bát cú. 
Thơ thất ngôn bát cú có thể được làm theo hai luật: luật bằng và luật trắc. Về vần thì có hai loại: vần bằng và vần trắc. 
Tuy nhiên, các thi nhân thường hay làm theo vần bằng, tức là luật bằng vần bằng và luật trắc vần bằng. 

1. LUẬT BẰNG VẦN BẰNG: 
- Luật bằng vần bằng là bài thơ mà tiếng thứ hai của câu đầu là tiếng bằng và các tiếng ở cuối các câu 1-2-4-6-8 phải vần với nhau và đều là vần bằng. 

2. LUẬT TRẮC VẦN BẰNG: 
- Luật trắc vần bằng là bài thơ mà tiếng thứ hai của câu đầu là tiếng trắc và các tiếng ở cuối các câu 1-2-4-6-8 phải vần với nhau và phải là vần bằng. 

BỐ CỤC BÀI THƠ BÁT CÚ: 
- Câu số 1 dùng để mở bài (gọi là phá đề), câu số 2 dùng để chuyển tiếp vào bài (gọi là thừa đề). Hai câu này có tên là hai câu đề. 
- Hai câu 3 và 4 dùng để giải thích đề tài cho rõ ràng. Hai câu này có tên là hai câu trạng (có nơi gọi thuật hay thực). 
- Hai câu 5 và 6 dùng để bàn rộng nghĩa đề tài và được gọi là hai câu luận. 
- Hai câu 7 và 8 dùng để tóm ý nghĩa cả bài và được gọi là hai câu kết. 

Sau đây là bảng luật thơ: 


1. LUẬT BẰNG VẦN BẰNG: 

B - B - T - T - T - B - B (vần) 
T - T - B - B - T - T - B (vần) 
T - T - B - B - B - T - T (đối câu 4) 
B - B - T - T - T - B - B (vần) (đối câu 3) 
B - B - T - T - B - B - T (đối câu 6) 
T - T - B - B - T - T- B (vần) (đối câu 5) 
T - T - B - B - B - T - T 
B - B - T - T - T - B - B (vần) 


2. LUẬT TRẮC VẦN BẰNG: 

T - T - B - B - T - T - B (vần) 
B - B - T - T - T - B - B (vần) 
B - B - T - T - B - B - T (đối câu 4) 
T - T - B - B - T - T - B (vần) (đối câu 3) 
T - T - B - B - B - T - T (đối câu 6) 
B - B - T - T - T - B - B (vần) (đối câu 5) 
B - B - T - T - B - B - T 
T - T - B - B - T - T - B (vần) 


Bài thơ thí dụ làm mẫu để minh họa: 

1. LUẬT BẰNG VẦN BẰNG: 

TRUNG THU 

Trăng thu toả sáng nhớ xa xăm 
Tháng tám chờ trông đến bữa rằm 
Mẹ dán lồng đèn chơi suốt sáng 
Cha làm trống ếch đánh quanh năm 
Xa rồi cảnh cũ lòng se lạnh 
Tiếc mãi ngày xưa lệ ướt dầm 
Chiếc lá chao mình trong gió sớm 
Nghe chừng vọng lại thoáng dư âm 

Hoàng Thứ Lang 


2. LUẬT TRẮC VẦN BẰNG: 

TRĂNG THỀ VƯỜN THÚY 

Xót phận hồng nhan một Thúy Kiều 
Trâm thề quạt ước lỗi hương yêu 
Thanh lâu lịm kín đời xuân sắc 
Kỷ viện vùi sâu nét diễm kiều 
Gió Sở không vơi niềm tịch mịch 
Mưa Tần chẳng bớt nỗi cô liêu 
Xa xôi cách trở Kim lang hỡi 
Có thấu lòng em tủi hận nhiều 

Hoàng Thứ Lang 


-----o0o----- 


Ghi chú thêm: 

LUẬT BẤT LUẬN TRONG THƠ ĐƯỜNG LUẬT 

Người làm Thơ Đường Luật phải tuân theo những luật lệ bắt buộc rất gắt gao nghiêm ngặt. Mà đã là luật rồi thì không thể sai phạm, có như thế bài thơ mới chính thống. Nếu không sẽ bị lai căng thành ra một loại thơ tạp giống như thơ "tự do" ngày nay (nhái theo thơ Cổ phong ngày xưa). 
Trong những luật lệ bắt buộc nói trên, có luật bằng trắc là cách sắp xếp âm điệu của bài thơ để nghe cho suông sẻ, êm tai, du dương, trầm bổng. Nếu không tuân theo luật nầy thì bài thơ đọc lên nghe rất chỏi tai, trắc trở, không hay. Tuy nhiên, để cho bớt gò bó trong việc tìm từ, kẹt ý ... thí dụ như gặp phải những từ kép hay những danh từ riêng chỉ nhân danh, địa danh, điển tích ... chúng ta không thể nào sửa đổi dấu giọng (bằng trắc) được. Do đó người xưa đã đặt ra Luật Bất Luận để "cởi trói" bớt cho người làm thơ. Theo bảng luật bất luận nầy thì: 
- Các tiếng ở vị trí thứ 2-4-5-6-7 của mỗi câu bắt buộc phải tuân theo luật bằng trắc (chính luật) mà bảng luật đã ấn định. 
- Các tiếng ở vị trí thứ 1 & 3 của mỗi câu không nhất thiết phải tuân theo luật bằng trắc mà bảng luật đã định. Tuy nhiên nên chú ý rằng mặc dù đã có luật bất luận nhưng tiếng nào theo luật định là trắc mà chúng ta làm bằng thì được, trái lại tiếng nào theo luật định là bằng mà chúng ta làm trắc thì không nên, đôi khi phạm phải lỗi "Khổ Độc" nữa. Vạn bất dắc dĩ, không tìm được tiếng nào hay hơn để thay thế thì chúng ta cũng có thể giữ y mà vẫn có thể chấp nhận được. Khi làm thơ càng cố gắng giữ đúng luật (chính luật) thì bài thơ càng hay về âm điệu. Bài thơ được đánh giá hay hay dở phần lớn là căn cứ vào các luật thơ, vì Thơ Đường Luật là Thơ Luật nghĩa là thơ phải làm theo luật. Bài thơ Đường Luật nếu bị sai luật dù cho nội dung, ý tứ, từ ngữ có hay cách mấy đi nữa thì cũng bỏ đi, không được chấp nhận. 

Sau đây là Bảng Luật Bất Luận: 

BẢNG LUẬT BẤT LUẬN THƠ THẤT NGÔN BÁT CÚ ĐƯỜNG LUẬT 

1. LUẬT TRẮC: 

t - T - b - B - T - T - B 
b - B - t - T - T - B - B 
b - B - t - T - B - B - T 
t - T - b - B - T - T - B 
t - T - b - B - B - T - T 
b - B - t - T - T - B - B 
b - B - t - T - B - B - T 
t - T - b - B - T - T - B 


2. LUẬT BẰNG: 

b - B - t - T - T - B - B 
t - T - b - B - T - T - B 
t - T - b - B - B - T - T 
b - B - t - T - T - B - B 
b - B - t - T - B - B - T 
t - T - b - B - T - T- B 
t - T - b - B - B - T - T 
b - B - t - T - T - B - B 


Ghi chú: chữ b-t là không cần giữ đúng luật, chữ B-T là bắt buộc phải giữ đúng luật. 

Ngoài ra Thơ Đường Luật là loại thơ "Độc Vận", nghĩa là chỉ gieo một âm vần duy nhất xuyên suốt cả bài thơ, không nên chen lẫn vào dù chỉ một âm vần khác, hay dở là ở chỗ nầy. Tóm lại Thơ Đường Luật nên gieo vần theo Chính Vận mà không nên dùng Thông Vận, vì toàn bài thơ chỉ có 5 vần thôi, đâu đến đổi khó tìm. Tuy nhiên trong những trường hợp bất khả kháng, người làm thơ vẫn có thể được phép dùng thông vận, nhưng càng ít càng tốt. 

Hoàng Thứ Lang

THƠ THẤT NGÔN BÁT CÚ ĐƯỜNG LUẬT 4 VẦN BẰNG


Như chúng ta đã biết, Thơ Thất Ngôn Bát Cú Đường Luật vần bằng là do sự ghép lại của hai bài Thơ Tứ Tuyệt Đường Luật vần bằng có đối. Bốn câu đầu là Tứ Tuyệt 3 vần, bốn câu sau là Tứ Tuyệt 2 vần. 

Thơ Thất Ngôn Bát Cú vần bằng có hai loại: 
- Thất Ngôn Bát Cú 5 vần. 
- Thất Ngôn Bát Cú 4 vần. 

Thất Ngôn Bát Cú 5 vần bằng thì chúng ta đã cùng nhau thực hành ở Bài IV. 

Bây giờ chúng ta làm quen với Thất Ngôn Bát Cú 4 vần bằng. 

Thơ Thất Ngôn Bát Cú Đường Luật 4 vần bằng là do sự ghép lại của hai bài Thơ Tứ Tuyệt 2 vần bằng có đối. Do đó tiếng cuối cùng của câu 1 phải là thanh trắc. 

Thơ Thất Ngôn Bát Cú Đường Luật 4 vần bằng có 3 cặp đối ngẫu: 

- Câu 1 và 2 đối nhau. 

- Câu 3 và 4 đối nhau. 

- Câu 5 và 6 đối nhau. 

Chỉ còn câu 7 và 8 không đối. 

Sau đây là bảng luật thơ: 


1. LUẬT TRẮC: 

t - T - b - B - B - T - T (đối câu 2) 
b - B - t - T - T - B - B (vần - đối câu 1) 
b - B - t - T - B - B - T (đối câu 4) 
t - T - b - B - T - T - B (vần - đối câu 3) 
t - T - b - B - B - T - T (đối câu 6) 
b - B - t - T - T - B - B (vần - đối câu 5) 
b - B - t - T - B - B - T 
t - T - b - B - T - T - B (vần) 

Bài thơ thí dụ: 

TÌNH SẦU 

Lất phất hiên buồn mưa rả rích 
Vi vu ngõ vắng gió lao xao 
Tình không chung mộng thiên thu nhớ 
Duyên chẳng tròn mơ vạn cổ sầu 
Kiếp khác đôi mình vui hội ngộ 
Đời nầy hai đứa khổ xa nhau 
Từng dòng lệ tủi lăn trên má 
Thôi thế đành cam lỡ nhịp cầu 

Hoàng Thứ Lang 


2. LUẬT BẰNG: 

b - B - t - T - B - B - T (đối câu 2) 
t - T - b - B - T - T - B (vần - đối câu 1) 
t - T - b - B - B - T - T (đối câu 4) 
b - B - t - T - T - B - B (vần - đối câu 3) 
b - B - t - T - B - B - T (đối câu 6) 
t - T - b - B - T - T- B (vần - đối câu 5) 
t - T - b - B - B - T - T 
b - B - t - T - T - B - B (vần) 

Bài thơ thí dụ: 

TƯƠNG TƯ 

Âm thầm đếm giọt mưa buồn đổ 
Lặng lẽ lau dòng lệ thảm rơi 
Ngang trái yêu đương hờn cách trở 
Lỡ làng mộng ước hận chia phôi 
Canh tàn tưởng bóng sầu không cạn 
Đêm vắng thương hình khổ khó vơi 
Em hỡi xin chờ nhau kiếp khác 
Đôi ta chung bước đẹp duyên đời 

Hoàng Thứ Lang 


****** 

Ghi chú quan trọng: Trên đây là bảng Luật Bất Luận. Tiếng thứ 1 và 3 của mỗi câu không cần phải giữ theo chính luật. Tuy nhiên nếu tiếng đáng trắc mà làm ra bằng thì không sao nhưng nếu tiếng đáng bằng mà làm ra trắc thì không nên. Tiếng thứ 5 của mỗi câu phải tuyệt đối giữ theo chính luật

THƠ THẤT NGÔN BÁT CÚ ĐƯỜNG LUẬT VẦN TRẮC



Về căn bản Niêm, Luật, Vần, Đối thì thơ Thất Ngôn Bát Cú Vần Trắc cũng giống y như thơ Thất Ngôn Bát Cú Vần Bằng. Nhưng chỉ khác một điểm là ngược lại, những tiếng cuối các câu 1-2-4-6-8 thay vì vần bằng thì ở đây lại là vần trắc, và những tiếng cuối các câu 3-5-7 thay vì trắc thì lại là bằng. 
Đây là lối thơ cổ, có trước thơ vần bằng. Luật vần trắc thường được áp dụng trong thể Phú là một loại Cổ Văn. 

Sau đây là bảng luật thơ: 

1. LUẬT BẰNG: 

b - B - t - T - B - B - T (vần) 
t - T - b - B - B - T - T (vần) 
t - T - b - B - T - T - B (đối câu 4) 
b - B - t - T - B - B - T (vần - đối câu 3) 
b - B - t - T - T - B - B (đối câu 6) 
t - T - b - B - B - T - T (vần - đối câu 5) 
t - T - b - B - T - T - B 
b - B - t - T - B - B - T (vần) 

Ghi chú: chữ t-b nhỏ không nhất thiết phải giữ đúng luật bằng trắc, nhưng nếu tiếng đáng trắc mà làm ra bằng thì được, trái lại tiếng đáng bằng mà làm ra trắc thì không nên. Các chữ T-B lớn phải tuyệt đối giữ đúng luật. 

Bài thơ thí dụ để làm mẫu minh họa: 

THU 

Thu về lá rụng cành xơ xác 
Gió cuốn hoa tàn rơi lác đác 
Cạnh suối nai vàng đứng nhởn nhơ 
Bên hồ thỏ trắng nhìn ngơ ngác 
Mù mù góc biển cặp chim âu 
Mịt mịt chân trời đôi cánh hạc 
Khói trắng bay hoài tận nẻo xa 
Mưa buồn rả rích hòa cung nhạc 

Hoàng Thứ Lang 


2. LUẬT TRẮC: 

t - T - b - B - B - T - T (vần) 
b - B - t - T - B - B - T (vần) 
b - B - t - T - T - B - B (đối câu 4) 
t - T - b - B - B - T - T (vần - đối câu 3) 
t - T - b - B - T - T - B (đối câu 6) 
b - B - t - T - B - B - T (vần - đối câu 5) 
b - B - t - T - T - B - B 
t - T - b - B - B - T - T (vần) 

Ghi chú: chữ t-b nhỏ không nhất thiết phải giữ đúng luật bằng trắc, nhưng nếu tiếng đáng trắc mà làm ra bằng thì được, trái lại tiếng đáng bằng mà làm ra trắc thì không nên. Các chữ T-B lớn phải tuyệt đối giữ đúng luật. 

Bài thơ thí dụ để làm mẫu minh họa: 

HÈ 

Phượng đỏ sân trường thêm rực rỡ 
Trưa Hè tiếng gió buồn than thở 
Du dương khúc nhạc vọng thê lương 
Réo rắc cung đàn nghe nức nở 
Trước ngõ cành lan trắng nụ đơm 
Bên tường khóm cúc vàng hoa trổ 
Mây bay lảng đảng tận phương nao 
Bãi biển rì rào con sóng vỗ 

Hoàng Thứ Lang

[size=30]THƠ 3 CHỮ[/size]




[size=30]THƠ 4 CHỮ[/size]



THƠ 4 CHỮ (vần tiếp)
* Bảng Luật :

x t x B
x b x T (vần với câu dưới)
x b x T (vần với câu trên)
x t x B (vần với câu dưới)
x t x B (vần với câu trên)
x b x T (vần với câu dưới)
x b x T (vần với câu trên)
x t x B

Nếu chữ cuối của câu đầu tiên là trắc thì chữ cuối của câu thứ 2 là bằng (trong bảng luật sẽ đảo vị trí B-T với nhau), các cặp vần bằng trắc cứ xen kẽ nối tiếp như vậy cho đến khi kết thúc bài thơ.

* Ghi chú :
- B : phải là bằng
- T : phải là trắc
- b : nên là bằng, nhưng không bắt buộc
- t : nên là trắc, nhưng không bắt buộc
- x : bằng hoặc trắc đều được

Thông thường trong một câu nếu chữ thứ 2 là bằng thì chữ thứ 4 là trắc, và ngược lại. Nhưng cũng có thể không cần phải đúng như vậy, miễn sao khi đọc được trôi chảy.


THƠ 4 CHỮ (vần ôm)
* Bảng Luật 1 :

x t x B (vần với câu 4)
x b x T (vần với câu 3)
x b x T (vần với câu 2)
x t x B (vần với câu 1)

* Bảng Luật 2 :

x b x T (vần với câu 4)
x t x B (vần với câu 3)
x t x B (vần với câu 2)
x b x T (vần với câu 1)

* Ghi chú :
- B : phải là bằng
- T : phải là trắc
- b : nên là bằng, nhưng không bắt buộc
- t : nên là trắc, nhưng không bắt buộc
- x : bằng hoặc trắc đều được

Tương tự như ở lớp 1, thông thường trong một câu nếu chữ thứ 2 là bằng thì chữ thứ 4 là trắc, và ngược lại.


THƠ 4 CHỮ (vần 3 tiếng)
* Bảng Luật Vần Bằng :

x t x B (vần)
x t x B (vần)
x b x T
x t x B (vần)

* Ghi chú : 
- B : phải là bằng
- T : phải là trắc
- b : nên là bằng, nhưng không bắt buộc
- t : nên là trắc, nhưng không bắt buộc
- x : bằng hoặc trắc đều được

Chữ cuối của các câu 1, 2 và 4 vần với nhau.

Nếu gieo vần trắc thì trong bảng luật lẽ đảo vị trí B-T cho nhau. Tuy nhiên, hiếm khi có người dùng vần trắc vì đọc nghe hơi ngang, nên ở đây chúng ta không bàn đến.

Cũng tương tự như ở 2 lớp trên, thông thường trong một câu nếu chữ thứ 2 là bằng thì chữ thứ 4 là trắc, và ngược lại.


THƠ 4 CHỮ (vần chéo)
Gieo vần chéo có 2 loại : tạm gọi là “một vần chéo” và “hai vần chéo”.

* Bảng Luật 1 : Một vần chéo 

x b x T
x t x B (vần với câu 4)
x b x T
x t x B (vần với câu 2)

Hoặc : 

x t x B
x b x T (vần với câu 4)
x t x B
x b x T (vần với câu 2)

* Bảng Luật 2 : Hai vần chéo 

x b x T (vần với câu 3)
x t x B (vần với câu 4)
x b x T (vần với câu 1)
x t x B (vần với câu 2)

Hoặc : 

x t x B (vần với câu 3)
x b x T (vần với câu 4)
x t x B (vần với câu 1)
x b x T (vần với câu 2)

* Ghi chú : 
- B : phải là bằng
- T : phải là trắc
- b : nên là bằng, nhưng không bắt buộc
- t : nên là trắc, nhưng không bắt buộc
- x : bằng hoặc trắc đều được

Cũng tương tự như ở các lớp trên, thông thường trong một câu nếu chữ thứ 2 là bằng thì chữ thứ 4 là trắc, và ngược lại.

[size=30]THƠ 5 CHỮ[/size]



THƠ 5 CHỮ (vần tiếp)
* Bảng Luật :

- Nếu bắt đầu là vần bằng :
x x t x B
x x b x T (vần với câu dưới)
x x b x T (vần với câu trên)
x x t x B (vần với câu dưới)
x x t x B (vần với câu trên)
x x b x T (vần với câu dưới)
x x b x T (vần với câu trên)
x x t x B

- Nếu bắt đầu là vần trắc :
x x b x T
x x t x B (vần với câu dưới)
x x t x B (vần với câu trên)
x x b x T (vần với câu dưới)
x x b x T (vần với câu trên)
x x t x B (vần với câu dưới)
x x t x B (vần với câu trên)
x x b x T

* Ghi chú : 
- B : phải là bằng
- T : phải là trắc
- b : nên là bằng, nhưng không bắt buộc
- t : nên là trắc, nhưng không bắt buộc
- x : bằng hoặc trắc đều được

Chữ cuối của câu 1 là bằng thì chữ cuối của câu 2 là trắc và ngược lại. Chữ cuối của câu 3 vần với chữ cuối của câu 2, các cặp bằng trắc cứ xen kẽ nối tiếp như vậy cho đến khi kết thúc bài thơ.

Thông thường trong một câu thì chữ thứ 3 và chữ thứ 5 khác nhau về bằng trắc.

THƠ 5 CHỮ (vần ôm)
* Bảng Luật 1:

x x t x B (vần với câu 4)
x x b x T (vần với câu 3)
x x b x T (vần với câu 2)
x x t x B (vần với câu 1)

* Bảng Luật 2:

x x b x T (vần với câu 4)
x x t x B (vần với câu 3)
x x t x B (vần với câu 2)
x x b x T (vần với câu 1)

* Ghi chú : 
- B : phải là bằng
- T : phải là trắc
- b : nên là bằng, nhưng không bắt buộc
- t : nên là trắc, nhưng không bắt buộc
- x : bằng hoặc trắc đều được

Một khổ thơ gồm 4 câu, chữ cuối của câu 1 và chữ cuối của câu 4 vần với nhau, chữ cuối của câu 2 và chữ cuối của câu 3 vần với nhau.

Tương tự như ở lớp 5, thông thường trong một câu thì chữ thứ 3 và chữ thứ 5 khác nhau về bằng trắc.


THƠ 5 CHỮ (vần 3 tiếng)
* Bảng Luật Vần Bằng :

x x t x B (vần)
x x t x B (vần)
x x b x T
x x t x B (vần)

* Ghi chú : 
- B : phải là bằng
- T : phải là trắc
- b : nên là bằng, nhưng không bắt buộc
- t : nên là trắc, nhưng không bắt buộc
- x : bằng hoặc trắc đều được
- Chữ cuối của các câu 1, 2 & 4 vần với nhau.

Nếu gieo vần trắc thì trong bảng luật chỉ cần đảo các vị trí B-T cho nhau. Tuy nhiên, ở đây chúng ta sẽ không đề cập tới.

Ngoài chữ thứ 3 và chữ thứ 5 khác nhau về bằng trắc, thông thường trong một câu nếu chữ thứ 2 là bằng thì chữ thứ 4 là trắc, và ngược lại.

descriptionSỔ TAY C5Zer HỌC LÀM THƠ EmptyRe: SỔ TAY C5Zer HỌC LÀM THƠ

more_horiz
#thơ
privacy_tip Permissions in this forum:
You cannot reply to topics in this forum
power_settings_newLogin to reply