C5ZONE
CHÀO MỪNG BẠN ĐÃ GHÉ THĂM DIỄN ĐÀN C5Zone


Bạn nên đăng nhập hoặc đăng ký thì mới xem được những nội dung chính của DIỄN ĐÀN. Việc đăng nhập hoặc đăng ký làm thành viên không tốn phí gì đâu. bạn yên tâm.
Bạn cũng có thể cứ làm khách vẫn xem được một phần nội dung của Diễn đàn, nhưng bị nhiều hạn chế hạn chế ở các chuyên mục như: không xem được ảnh, không nhìn thấy link ...

< /form>< /div>< /div>
C5ZONE
CHÀO MỪNG BẠN ĐÃ GHÉ THĂM DIỄN ĐÀN C5Zone


Bạn nên đăng nhập hoặc đăng ký thì mới xem được những nội dung chính của DIỄN ĐÀN. Việc đăng nhập hoặc đăng ký làm thành viên không tốn phí gì đâu. bạn yên tâm.
Bạn cũng có thể cứ làm khách vẫn xem được một phần nội dung của Diễn đàn, nhưng bị nhiều hạn chế hạn chế ở các chuyên mục như: không xem được ảnh, không nhìn thấy link ...

< /form>< /div>< /div>
C5ZONE
Would you like to react to this message? Create an account in a few clicks or log in to continue.

C5ZONELog in

We Share


{Full} Ma câm: Ma khóc dưới hồ Tiên Đôn - Thiên Hạ Bá Xướng

power_settings_newLogin to reply

description{Full} Ma câm: Ma khóc dưới hồ Tiên Đôn - Thiên Hạ Bá Xướng - Page 11 EmptyRe: {Full} Ma câm: Ma khóc dưới hồ Tiên Đôn - Thiên Hạ Bá Xướng

more_horiz
Chương 16: Hồn ma trong chiếc gương đồng

1

Bấm vào đây để xem nội dung.
Tôi thấy thi thể Na vương trong quan tài đã xảy ra thi biến, hình dạng đúng như ác mộng trong bức họa thì vô cùng sợ hãi, một nỗi kinh hoàng tràn ngập toàn thân từ đầu đến chân, sợ tới hồn bay phách lạc, không dám nhìn thêm một giây nào, tôi cùng hai người kia khiêng Điếu bát chạy vội vào đường hầm, cố gắng đóng kín cánh cửa đá rồi chạy thục mạng trong đường hầm ngoằn ngoèo gập ghềnh lúc cao lúc thấp, đánh rơi đèn pin cũng không dám dừng lại nhặt, cứ vậy vừa chạy vừa vấp ngã trong đường hầm tối đen. Một lúc lâu sau, khi thấy sau lưng không còn có động tĩnh gì mới dám dừng lại. Ba người ngồi bệt xuống đất thở không ra hơi, tim như muốn nhảy ra khỏi lồng ngực.

Khi hơi thở đã hơi ổn định, tôi đưa mắt nhìn xung quanh, nhưng chẳng thấy được gì trong bóng đêm đen kịt, mò trong túi lấy được chiếc đèn pin dự phòng, ánh sáng vừa bật lên thì mặt Mặt dày hiện ra trước mắt tôi.

Lão ta nói: “Mẹ cha nó, kinh khủng thật, bọn mình... vẫn chưa chết sao?”

Tôi lắc đầu bất lực, quay sang thấy Điếu bát đã hôn mê bất tỉnh, mặt trắng như tờ giấy, tình hình có vẻ nguy kịch, không khỏi lo cho anh ta lỡ ba dài hai ngắn thì nguy tới tính mạng. Tại sao lại nói “ba dài hai ngắn”, khi người chết nhập quan, quan tài chưa đóng nắp thì ta thấy ba miếng ván dài hai miếng ván ngắn, nên dùng từ này để ám chỉ người sắp phải vào quan tài rồi. Tôi suy nghĩ: “Không biết người chết trong quan tài là yêu ma hay là quỷ quái, nhưng chắc chắn là không thể đối phó được với nó. Cố tìm đường mà chạy thoát, sống thêm được ngày nào hay ngày đó, không thể để Mặt dày và Điền Mộ Thanh bỏ mạng ở đây.”

Tôi dùng đèn pin soi sáng, thấy Điền Mộ Thanh đã lấy khăn tay băng bó vết thương, nhưng vì vết cứa quá sâu nên chảy khá nhiều máu. Tôi bỗng buột miệng hỏi: “Cô là ai?”

Điền Mộ Thanh nhìn tôi khó hiểu. “Anh hỏi gì lạ lùng thế?”

Tôi nói: “Không phải tôi hỏi lạ lùng, mà sự việc có gì đó không đúng. Rõ ràng bọn nhện đã cắn chết bọn Hoàng phật gia, nhưng khi tiến gần đến chúng ta thì đột nhiên bỏ đi. Lúc đó, tôi thấy tay cô bị chảy máu nhỏ xuống cả sàn nhà, bọn nhện ăn thịt người không nhả xương đó trông thấy là bỏ chạy tán loạn, có phải cô cố tình làm đứt tay không? Tại sao bọn nhện lại sợ máu của cô?”

Điền Mộ Thanh giải thích: “Anh đa nghi quá đấy, tôi chỉ không may cứa đứt tay thôi.”

Mặt dày lên tiếng: “Tôi thấy cậu sợ quá đâm ra lẩn thẩn, nếu nói là chảy máu thì Điếu bát chẳng phải chảy còn nhiều hơn sau?”

Tôi nói với Mặt dày: “Chuyện này không đơn giản như vậy đâu. Chỉ nghe thấy cuộc nói chuyện của tôi và Lư mặt rỗ ở trên tàu mà cô ấy thân gái một mình dám đi vào nơi rừng hoang núi thẳm này. Tôi thấy cô ấy gặp chuyện vẫn giữ được bình tĩnh, còn to gan hơn cả Điếu bát, lúc nào cũng mang vẻ mặt đầy tâm trạng, có điều cô ấy lại rất sợ hai cỗ quan tài trong địa cung, dường như cô ấy biết không ít bí mật về ngôi mộ cổ trong núi Hùng Nhĩ này. Nhưng dù sao đây cũng chỉ là cảm giác của tôi, cho tới lúc tôi nhìn thấy cô ấy bị đứt tay chảy máu khiến bọn nhện sợ hãi bỏ chạy thì tôi càng thấy...”

Điền Mộ Thanh nói: “Các anh cứu thoát tôi từ tay bọn Hoàng phật gia, tôi cảm tạ vô cùng. Còn chuyện tôi là ai thì tùy anh muốn nói gì thì nói.” Nói đến đó, mắt Điền Mộ Thanh đỏ hoe, cô gần như sắp khóc.

Mặt dày quay sang trách tôi: “Đang lúc gay go tới tính mạng mà cậu còn làm cho cô ấy khóc nữa”, rồi quay sang an tủi Điền Mộ Thanh: “Cô đừng chấp thằng đó, nó xem phim ‘Liêu trai’ nhiều quá nên bị ngộ rồi, đêm nào cũng nằm mơ thấy ma quỷ về bắt mình.”

Tôi nói: “Ma quỷ trong phim ‘Liêu trai’ ai nấy đều mặt hoa da phấn, có gì mà sợ, chẳng bằng một góc trong tiểu thuyết kinh dị.”

Mặt dày nói: “Phim ‘Liêu trai’ thành tiểu thuyết từ lúc nào đấy? Sao tôi lại không biết?”

Tôi không thèm đôi có với Mặt dày, quay sang nói với Điền Mộ Thanh: “Cô có khóc cũng không có tác dụng gì, tôi không nhìn nhầm đâu, những lời tôi nói hôm nay nếu sai nửa chữ thì tôi...”

Vừa nói tới đó, tôi chợt nhớ lại mấy hôm trước, lúc chúng tôi nghỉ chân tại quán trọ bỏ hoang ở Thảo Hài Lĩnh, may nhờ mấy chiếc mặt nạ của xác chết nên mới đuổi được con rắn mối khổng lồ, hóa ra trên mặt nạ vỏ cây có thạch hoàng, thứ đó đuổi được rắn. Chúng tôi sợ sau này dọc đường lại gặp phải rắn mối nên đã cạy mấy viên thạch hoàng, rồi mang theo bên mình. Vừa nãy trong địa cung gặp phải lũ nhện ăn thịt người, không chừng cũng chính nhờ có thạch hoàng nên đã đuổi được lũ nhện đó đi, nếu đúng vậy thì chẳng phải tôi đã trách oan Điền Mộ Thanh rồi sao?

Nên chưa nói hết câu tôi đã vội ngậm miệng lại, đổi giọng: “Nếu tôi có nói sai thì coi như tôi chưa nói gì, không phải tôi coi cô là người ngoài, giờ chúng ta không còn phân biệt người trong người ngoài nữa rồi, tôi thấy chỗ này không tiện ở lâu, chúng ta nghỉ cũng kha khá rồi, phải đi tiếp thôi.”

Điền Mộ Thanh chẳng hiểu tại sao tôi lại đổi giọng nhanh thế, nhưng cũng không có ý trách tôi. Chúng tôi vẫn sợ thây ma trong chính điện tiếp tục đuổi theo nên chỉ dám nghỉ ngơi một chút rồi lại cõng Điếu bát lên lưng tiếp tục tháo chạy theo lối đường hầm. Khi chạy tới cuối đường hầm, chúng tôi thấy một cánh cửa đá rất thấp, chui qua cánh cửa đó ra ngoài, chỉ thấy phía trước mờ mịt sương mù, cỏ dại mọc um tùm, phía sau chúng tôi là một đồi đất cao không nhìn thấy ngọn. Hóa ra chúng tôi đã ra khỏi địa cung nhưng không biết tự lúc nào, mặt hồ đã biến mất không nhìn thấy nữa, những mái nhà xung quanh bị vùi trong bùn đất nhấp nhô như những ngôi mộ.

Cả ba chúng tôi đều điếng người, cũng không dám đứng lâu trong ngôi làng ma quỷ này, vội vã len lỏi trong những dãy nhà để thoát ra khỏi thôn làng.

Ngôi mộ cổ trên núi Hùng Nhĩ chỉ có phần nấm mồ là nhô lên khỏi mặt nước, người dân trong vùng gọi đó là Tiên Đôn, chúng tôi vào đây rồi mới biết, thực ra đó chính là một ngọn núi, dưới chân núi là nhà dân, đó là số người dân ở lại nơi đây canh lăng tẩm, sau đó cả vùng này bị nhấn chìm xuống đáy hồ, chỉ còn ngọn núi là nhô lên khỏi mặt nước, phía bắc chính là động Ngư Khốc, Thảo Hài Lĩnh.

Giờ chúng tôi nên đi về hướng bắc, bỗng nghe thấy tiếng sấm dội bên tai, trời bỗng đổ mưa, mây mù có tan đi phần nào. Tầm nhìn tốt hơn, chúng tôi trông thấy phía trước là rừng, cây cối rậm rạp, phía trước là một màu tối đen vô tận.

description{Full} Ma câm: Ma khóc dưới hồ Tiên Đôn - Thiên Hạ Bá Xướng - Page 11 EmptyRe: {Full} Ma câm: Ma khóc dưới hồ Tiên Đôn - Thiên Hạ Bá Xướng

more_horiz
Chương 16: Hồn ma trong chiếc gương đồng

2


[size=11]Bấm vào đây để xem nội dung.
Mưa mỗi lúc một to và dày hạt hơn, đang lúc giữa tiết mùa thu, thời tiết trong núi lạnh lẽo, tê buốt không thể chịu được, chúng tôi ướt nhẹp, dò dẫm từng bước đi về phía ven rừng. Chúng tôi nhìn thấy mấy gian nhà cổ dưới một gốc cây đã chết khô, trong nhà không đèn không đóm nhưng làm chỗ trú mưa cũng được, chúng tôi đành phải vào trong lánh tạm, đợi tới sáng mai rồi đi tiếp vậy. Lại gần mới thấy, căn nhà lớn này tận dụng nguyên liệu ngay tại vùng, được xây bằng những viên đá khối xẻ trong núi, trát bằng đất và vôi, cột gỗ cái nào cái nấy to lớn, chắc nịch, hết sức kiên cố. Chúng tôi bước vào gian nhà to đầu tiên, chỉ thấy bên trong trống tuềnh trống toàng, trên tường có vài cái hốc để đặt đèn, khắp nơi bám đấy bụi bặm, vì đã lâu không có người sinh sống, nên mùi ẩm mốc lẫn với mùi thối rữa của cây cối bốc lên vô cùng khó chịu.

Chúng tôi tháo ba lô ra, tìm chỗ đặt Điếu bát nằm xuống, vần mấy viên đá bịt kín cửa ra vào, trong ba lô Mặt dày còn một túi nến nữa, anh ta thắp một cây đặt ở góc nhà.

Tôi thấy Điếu bát vẫn đang hôn mê nhưng hơi thở vẫn đều đặn nên cũng yên tâm phần nào. Tôi lấy ra hai điếu thuốc lá, vứt cho Mặt dày một điếu, hai người ngồi dựa lưng vào tường rít mấy hơi liền. Nghĩ lại cảnh tượng vừa rồi trong địa cung, cánh tay cầm thuốc của tôi vẫn run lên sợ hãi.

Mặt dày lật xem tấm bản đồ của Điếu bát, hỏi: “Cậu nhìn xem, trên bản đồ sao không có chỗ này?”

Tôi nói: “Chúng ta ra khỏi địa cung đi theo hướng Bắc, phía Bắc chính là động Ngư Khốc, nhưng sao lúc tới đây bọn mình không nhìn thấy khu rừng này nhỉ? Đúng là gặp ma rồi, cái nơi quỷ quái này lại còn vừa mưa vừa sương mù, chắc phải chờ trời sáng mới phân biệt được vị trí, mong là đừng xảy ra chuyện.”

Mặt dày nói: “Đã ra khỏi khu mộ cổ rồi còn sợ gì nữa? Chuyến này bọn mình thu được chiếc vương miện vàng và dây lưng bằng ngọc nhưng lại chẳng thuận lợi chút nào, lần sau xuất hành phải xem ngày giờ mới được, không thể đi vào ngày kỵ động thổ.”

Tôi nói: “Ông đúng là chẳng biết gì, động thổ là chỉ chuyện hạ huyệt dời mộ, liên quan gì đến đổ đấu? Có ai đi đào mộ trộm đồ còn xem ngày xem giờ không? Kiếm cơm bằng cái nghề đổ đấu này chỉ dựa vào gan to không mê tín, chẳng kiêng kỵ gì sất. Đương nhiên vẫn có những tay trộm mộ mê tín, nhưng không phải là chuyện xem ngày giờ, bọn họ thường nghe theo Xuất ngữ.”

Mặt dày không hiểu: “Xuất ngữ à? Là cái gì?”

Tôi giải thích: “Cũng giống như dân giang hồ hay nói tới khái niệm con số may mắn, nó có hơi hướng giống như phong tục ngày Tết, ngày mồng một ra đường thường để ý tới người đầu tiên nói chuyện với mình, theo quan niệm mê tín của người xưa thì trong câu nói đầu tiên của năm mới này ẩn chứa hung cát, chính là dự báo cho vận hạn của năm mới. Lão Nghĩa mù nhà tôi lúc còn sống rất tin vào điều này. Vào đêm ba mươi, sau khi đã ăn tối, thắp hương cúng bái xong là đi ra ngoài để nghe Xuất ngữ. Mà cũng không phải thích đi hướng nào thì đi đâu, phải thỉnh ý kiến của Sư tổ, mà bài vị của Sư tổ nào có biết nói, đành mượn cái thìa chỉ hướng vậy, kính cẩn đặt cái thìa trước bài vị xong xoay một vòng, chiếc thìa chỉ vào hướng nào thì xuất hành theo hướng đó. Nếu chỉ về hướng đông thì ra cửa xuất hành theo hướng đông, nếu hướng đó là một ngõ cụt, không còn cách nào khác phải quay về thì phải thỉnh ý kiến Sư tổ một lần nữa, lần này là hướng bắc, vừa vặn hướng bắc là chỗ trú chân của một tên ăn mày. Đêm ba mươi thì ăn mày không ra đường ăn xin, bụng rỗng thì đành phải đi ngủ sớm, canh tư mò dậy đi tiểu, đúng lúc lão Nghĩa mù đi ngang qua, nghe tiếng nước chảy thì mừng thầm trong bụng, cứ cho rằng gặp nước là phát tài, thật là một điềm may, trong năm nay ắt thu được nhiều món hời. Nếu không đi ra ngoài thì canh năm dậy đốt pháo rước thần tài, tiếng pháo nổ có đẹp hay không cũng là điềm báo cho năm mới. Lão Nghĩa mù rất tin vào những điều này, có đúng hay không tôi cũng không biết, nhưng bản thân tôi thì chẳng mấy tin vào những thứ đó.”

Dù sao tôi cũng không yên tâm về ngôi nhà không có trong bản đồ này, nói chuyện với Mặt dày vài câu bỗng thấy càng ngày càng lạnh, dặn dò Mặt dày và Điền Mộ Thanh trông nom Điếu bát, tôi ra ngoài kiếm ít củi về đốt.

Điền Mộ Thanh lạnh run cầm cập, cô không chịu nổi gian nhà to âm u lạnh lẽo này, cứ đòi đi theo tôi.

Tôi nghĩ ngợi một lúc rồi cũng đồng ý, mang theo súng săn và đèn pin, giao cho Điền Mộ Thanh một cây nến, chúng tôi đẩy cửa vào gian phòng thứ hai, gian phòng này còn to hơn gian trước, sáu cột năm dầm, bệ cột đá hình hoa sen, trông như một gian điện, mấy bức tượng giữa phòng đã bị đổ sập, trên tường chi chít bích họa, đều phủ dày bụi bặm, màu sắc mờ nhạt nhưng vẫn còn xem được nội dung.

Tôi nhất thời không nói được gì, thần người ra một lúc mới lên tiếng: “Thần thổ địa lấy ráy tai xây tường chắc - vô lý thật! Đây chính là điện thờ Na thần.”

Điền Mộ Thanh kinh ngạc: “Hóa ra chúng ta vẫn chưa ra khỏi ngôi làng.”

Tôi nói: “Lạ thật, tại sao ở đây lại không có dấu hiệu bị chìm trong nước.”

Điền Mộ Thanh nói: “Từ số bức bích họa kia có thể nhận biết nơi đây có phải là miếu thờ Na thần không...” nói rồi cô soi đèn lại gần, phủi lớp bụi phía trên, cúi đầu nghiên cứu những bức tranh.

Tôi cũng đang định tới xem thì chợt thấy ớn lạnh, không phải do trong ngôi miếu cổ này ẩm thấp lạnh lẽo mà là lạnh từ bên trong lạnh ra khiến toàn thân nổi da gà.

Tôi nghĩ thầm: “Trong này có gì sao?”, dùng đèn pin soi khắp gian phòng, thì thấy cánh cửa thông sang gian phòng thứ ba đang khép hờ, qua khe cửa tôi nhìn thấy khuôn mặt một bé gái khoảng mười tuổi đang nấp ở phía trong nhìn chúng tôi, hai mắt chớp chớp rất linh hoạt, khi ánh đèn pin chiếu tới, thì cô bé lập tức trốn vào trong bóng tối.

Tôi kinh hãi nghĩ: “Giữa nơi thâm sơn cùng cốc này tại sao lại xuất hiện đứa bé? Là trẻ con của dân làng gần đây sao?” Tôi vội tới gần rồi mở đẩy cánh cửa ra, bên trong là gian phòng thứ ba cũng giống như hai gian phòng vừa rồi, sàn nhà phủ đầy bụi bặm, trên tường mạng nhện chăng đầy, phía trước tuyệt nhiên không một dấu chân người.
[/size]

description{Full} Ma câm: Ma khóc dưới hồ Tiên Đôn - Thiên Hạ Bá Xướng - Page 11 EmptyRe: {Full} Ma câm: Ma khóc dưới hồ Tiên Đôn - Thiên Hạ Bá Xướng

more_horiz
Chương 16: Hồn ma trong chiếc gương đồng

3


[size=11]Bấm vào đây để xem nội dung.
Điền Mộ Thanh hỏi tôi: “Anh sao thế, sao lại đứng thẩn ra vậy?”

Tôi chỉ vào chỗ cửa hỏi: “Cô không nhìn thấy gì sao? Chỗ này...”

Điền Mộ Thanh thấy vậy liền cầm đèn pin đi ra giữa gian miếu thờ. “Trong đó có gì đâu, tôi chẳng trông thấy gì cả.”

Tôi nghĩ đứa bé đột nhiên biến mất, giờ nói ra cũng chẳng có bằng chứng gì, làm sao mà người ta tin được, đành nói: “Tôi thấy trên tường gian nhà trong có bàn thờ, mấy gian nhà này chính là miếu thờ đấy.”

Điền Mộ Thanh hỏi: “Bàn thờ à? Trông bộ dạng anh vừa rồi, tôi cứ tưởng anh nhìn thấy gì không hay rồi chứ.”

Tôi thầm quan sát xung quanh, miệng lại nói: “Không có gì, trong miếu thờ thì không thể có ma được.”

Tôi quay đầu lại, vừa vặn nhìn thấy bức tranh Điền Mộ Thanh vừa phủi đi lớp bụi bên trên, trong tranh vẽ hình một cô gái với dáng vẻ yêu kiều, tuy bức tranh đã bị bay màu, hình thù có phần mờ nhạt nhưng vẫn có thể khẳng định không phải là hình ảnh người đeo mặt nạ vỏ cây thường gặp như trong Na giáo, tôi chợt nghĩ: “Nơi đây cũng chưa hẳn là miếu thờ Na thần.”

Điền Mộ Thanh hỏi: “Trong miếu thờ mới có tượng thờ và bích họa chứ, anh cho rằng đây không phải là nơi thờ cúng Na thần?”

Tôi nói: “Trên núi Hùng Nhĩ có ngôi chùa cổ tên là Pháp Hoa, nghe nói trong ngôi chùa cổ này có bức bích họa vẽ một mỹ nhân với sắc đẹp được mệnh danh là có một không hai, hay là chúng ta đã tới ngôi chùa Pháp Hoa đó...”

Nhưng nghĩ lại cũng không ổn, núi Hùng Nhĩ dài mấy chục cây số, chùa Pháp Hoa cách Thảo Hài Lĩnh xa như vậy, quần sơn cách trở, làm sao có thể tới nhanh như thế được, hơn nữa những gian nhà lớn này đều được xây từ đá, không mang vẻ nguy nga lộng lẫy theo phong cách chùa cổ, khả năng là miếu thờ Na thần, chỉ có điều rất hiếm thấy có hình ảnh người bình thường không đeo mặt nạ vỏ cây xuất hiện trong miếu thờ của Na thần.

Điền Mộ Thanh rất hiếu kỳ với bức tranh vị nữ bồ tát mà tôi vừa nhắc tới, cô hỏi: “Trong chùa cổ Pháp Hoa tại sao lại vẽ tranh mỹ nữ? Người trong tranh đúng là rất đẹp sao?”

Tôi nghĩ: “Điền Mộ Thanh rất thích thú với hội họa, hơn nữa một cô gái trực tiếp nghe lời khen ngợi một cô gái khác trước mặt mình thì không tránh khỏi có chút ghen tị.” Tôi đành nói với cô ấy: “Hoàng đế thời Tống rất sùng đạo Phật, đã hạ chỉ cho xây chùa Pháp Hoa tại núi Hùng Nhĩ, còn lệnh vẽ bích họa trong chùa, đã chỉ định vị họa sỹ giỏi nhất thời đó đảm đương công việc vẽ tranh, tuy sức yếu nhiều bệnh, nhưng người này vẫn bị ép đến làm việc, con gái ông ta lo lắng cho sức khỏe của cha già đã giả thành nam nhi tới núi Hùng Nhĩ trà trộn trong đám thợ để chăm sóc cho cha mình. Hàng ngày làm các công việc giặt giũ quần áo, cơm nước cho đám thợ nên ai cũng quý mến. Trong bảo điện thì đương nhiên phải có tranh Bồ tát, nhưng lúc đó không tài nào vẽ nổi, tuy bức tranh đã đẹp rồi nhưng chưa đạt được vẻ thoát tục. Tên đốc công do triều đình phái đến lo sợ sẽ ảnh hưởng tới tiến độ thi công đã nổi giận lôi đình, lệnh cho quân lính phạt roi các thợ vẽ tranh, trong đó có ông họa sỹ già, nếu phải chịu số đòn roi đó thì coi như mất mạng. Lúc này, con gái của lão họa sỹ già xuất hiện nguyện thay cha mình chịu đòn. Tên đốc công thấy cô dung mạo tuyệt vời nhận ra là gái giả trai, liền ép cô phải cởi hết quần áo để chịu phạt. Cô gái biết số mình không may, chỉ quay đầu lại nhìn cha mình và đám thợ vẽ tranh lần cuối rồi mỉm cười nhảy vào chỗ lò nung thép đúc tượng. Ngay lập tức cô hóa thành đám mây trắng bay lên trời, nhưng dung mạo thần thái của cô đã in đậm trong tâm trí của đám thợ, họ đã vẽ thành công bức bích họa đại từ đại bị cứu khổ cứu nạn của Quan thế âm Bồ tát. Chính vì vậy bức họa trong ngôi chùa này khác hẳn với những ngôi chùa khác, đáng tiếc qua sự bào mòn của thời gian, đã không còn giữ được vẻ đẹp nguyên thủy của bức tranh nữa.”

Điền Mộ Thanh lớn tiếng thở dài, một lúc sau vẫn còn im lặng trầm tư.

Tôi thì chẳng có tâm trạng nào mà thông cảm cho người xưa, hơn nữa câu chuyện này vừa nghe đã biết là bịa đặt, cô gái kia giả trai mà cũng không biết làm cho giống lên một chút, bôi ít nhọ nồi cho mặt đen đi chẳng hạn, đúng là ngốc hết chỗ nói.

Tôi vừa nói vừa phủi lớp bụi trên tường đi, dựa vào ánh sáng của ngọn nến, tôi xem xét một lượt những bức họa. Các bức họa tại bức tường phía đông đã bị bong tróc nặng khó nhìn ra hình gì, nội dung không còn nguyên vẹn, chỉ lờ mờ nhận ra khuôn mặt của mấy cô gái, phía sau có một số đồng nam đồng nữ người cầm kiếm người cầm gương, không hiểu là để làm gì. Bức tường phía Tây vẫn còn tương đối nguyên vẹn, bức bích họa như một bức hoành phi vẽ lại một ngọn núi lớn cao chạm mây xanh, trong lòng núi ẩn hiện những cung điện nguy nga, xung quanh chi chít nhà cửa với hàng vạn người sinh sống, ba phía đông, tây và bắc đều là núi, ở ngọn núi phía bắc có một hang động, giữa cửa hang và ngôi làng là một gốc cây to đã chết khô và mấy gian nhà đá, phía tây ngôi làng là bãi tha ma, phía đông là bệ đá lớn, phía nam có tấm bia đá đặt trên mai co bí hí[1], trong bức tranh còn có vài đường kẻ màu đen mờ nhạt không rõ ràng, còn phía trên bức tranh là một vị Na tướng quân diện mạo rất hung dữ.

[1] Bí hí hay còn gọi là Quy phu, bề ngoài khá giống con rùa, thích mang nặng, có thể cõng cả tam sơn ngũ nhạc không bao giờ mệt mỏi vì thế tượng Bí hí cõng trụ đá, cõng bia thường bị nhầm thành con rùa.

Tôi nói với Điền Mộ Thanh: “Mấy gian nhà này đúng là có liên quan tới Na thần, giờ chúng ta đang ở vị trí này, chỉ cần đi xuyên qua khu rừng là tới được động Ngư Khốc, con đường đó lúc vào đây chúng ta đã đi qua.”

Trong bức bích họa còn có một số chữ cổ ghi chú cho một số vị trí, tôi chẳng biết chữ nào nhưng Điền Mộ Thanh thì có thể đọc được một ít, cô chỉ cho tôi thấy: “Chỗ đụn đất ở chính giữa là núi Huyền Cung, Huyền Cung chính là địa cung, ngôi làng dưới núi là thôn Thiên Cổ Dị Đế, hang động phía bắc là động Ngư Khốc, tấm bia đá trước cổng làng được gọi là bia Tầm Na, gốc cây khô đó là cây Na, dưới gốc cây là Na miếu, phía tây ngôi làng là nơi cúng tế của người Quỷ Phương (Đất quỷ), có một con đường hầm thông với thôn làng, phần phía đông có rất nhiều mồ mả không rõ tại sao lại không thấy chú thích. À đúng rồi, phần lớn mộ là mộ của người dân trong làng. Nhưng hàng nghìn năm trước, nơi này bị chìm sâu dưới nước, sao bây giờ lại nổi lên được nhỉ?”
[/size]

description{Full} Ma câm: Ma khóc dưới hồ Tiên Đôn - Thiên Hạ Bá Xướng - Page 11 EmptyRe: {Full} Ma câm: Ma khóc dưới hồ Tiên Đôn - Thiên Hạ Bá Xướng

more_horiz
Chương 16: Hồn ma trong chiếc gương đồng

4


[size=11]Bấm vào đây để xem nội dung.
Tôi lắc đầu không hiểu, việc này nghĩ tới nghĩ lui vẫn không thông, còn tấm bia trước cổng làng nữa chứ, sao lại gọi là bia Tầm Na mà lại không gọi thẳng luôn là bia Na đi?

Điền Mộ Thanh giải thích: “Bia đá thường dùng để ghi lại các sự việc, nghe anh Điếu bát nhà anh nói, tầm Na là nói tới phong tục đuổi ma trừ tà, là một nghi thức từ cổ xưa. Có thể trên bia đá ghi chép lại nghi thức đó của người dân trong làng.”

Tôi nghĩ cũng phải, hình ảnh tấm bia Tầm Na trong bức tranh là một tấm bia đá rất to được đặt trên mai bí hí, trong dân gian gọi đó là “Rùa cõng bia đá”. Bí hí là con cháu của rồng, có thể cõng được những vật rất nặng, thời cổ làm bia đá bí hí thường có hai đặc điểm nhận dạng, một là rất cao to, hai là nội dung viết trên bia hết sức quan trọng. Vì vậy, chắc chắn là tấm bia đá kia ghi chép lại những sự việc quan trọng đã xảy ra trong ngôi làng Thiên Cổ Dị Đế. Nếu tôi không muốn bị cơn ác mộng trong ngôi mộ cổ nhà Liêu dày vò cho đến chết thì buộc phải biết trên tấm bia đá đó viết những gì. Nhưng ngặt nỗi Điếu bát sống chết chưa biết thế nào, sớm rời khỏi nơi này thì anh ta còn có thêm tia hi vọng sống. Trong thời điểm quan trọng này, tôi không thể chỉ nghĩ tới mạng sống của mình, hơn nữa tôi cũng chẳng gan đâu mà dám bước chân vào ngôi mộ đó một lần nữa. Chuyện đã tới nước này đành phải nghe theo sự sắp đặt của ông trời vậy, phải thoát ra khỏi đây trước đã.

Lúc này, Mặt dày đi tới nói với chúng tôi: “Bên ngoài tạnh mưa rồi, sương mù lại dày đặc hơn, bọn mình phải nghĩ cách gì đi chứ, tiếp tục nán lại đây hay là tìm đường thoát ra ngoài?”

Tôi nói: “Nếu bên ngoài đã tạnh mưa rồi thì chúng ta tiếp tục đi về hướng bắc, xuyên qua khu rừng này là tới động Ngư Khốc, tới đó có thể theo đường cũ quay về. Hai người đi thu dọn đồ đạc, bó thêm vài bó đuốc dự phòng, tôi ở đây xem mấy bức bích họa này một lát nữa.”

Mặt dày tìm mấy cành cây to bó lại, lấy mấy bộ quần áo rách xé nhỏ thành sợi đưa cho Điền Mộ Thanh buộc vào bó củi, chấm dầu trên vách tường làm đuốc.

Tôi tắt đèn pin để sau cần còn dùng, cầm ngọn nến Điền Mộ Thanh vừa đưa cho, một mình đi sâu vào bên trong Na miếu, phủi đám mạng nhện và bụi bặm giăng trước mặt, tôi dò xét khắp nơi.

Cứ nghĩ tới khuôn mặt cô bé phía sau cánh cửa thì nổi bất an lại tràn về, không biết do tôi nhìn nhầm hay gặp ma thật, cho dù là ma hay người thì cũng chỉ là một con nhóc tì, sợ gì cơ chứ.

Tôi tự trấn an mình rồi tiến tới chỗ bức bích họa sau hậu đường. Miếu đường quay mặt sang hướng nam, bích họa được vẽ ở hai bức tường phía đông và tây. Phía đông vẽ hình ngôi bảo điện nguy nga tráng lệ, bên cạnh có một con cá rất to. Tôi vừa nhìn thấy bức tranh đã nghĩ tới lần lão Nghĩa mù gặp nạn. Năm đó khi Đả thần tiên Dương Phương và Đồ Hắc Hổ cùng mắc kẹt trên nóc điện dưới lòng sông Hoàng Hà, cũng có nét tương đồng với họa tiết trong bức họa này. Với bản lĩnh của Thôi lão đạo và Dương Phương cũng không thể xác định được ngôi bảo điện bị chìm trong hố cát dưới sông Hoàng Hà thuộc thời đại nào, chỉ đoán khoảng thời Tùy hoặc Đường, không ngờ lại có liên quan tới thôn Thiên Cổ Dị Đế này, không lẽ ngôi làng này cũng bị chìm xuống hồ vào khoảng thời Tùy, Đường?

Tôi quan sát một lúc lâu không thu được kết quả gì, cũng không rõ là chúng có mối quan hệ như thế nào với nhau. Nhìn sang bức bích họa đối diện là mấy chục vị Na tướng quân đeo mặt nạ, họ đang khống chế một người và mổ bụng người đó, người bị mổ bụng nằm sóng soài dưới đất, tóc tai rũ rượi, phèo ruột lổn nhổn trên mặt đất, người đó vẫn chưa chết, đang cố gắng vùng vẫy thoát thân, quang cảnh máu me khủng khiếp, giống hệt như những gì Điếu bát miêu tả về lễ bắt ma hoàng.

Tôi nghĩ: “Với cỗ quan tài và số đồ tùy táng quý giá trong địa cung thì người đó chính là Na vương. Nếu là Na vương, tại sao lại bị Na tướng quân giết chết và hậu táng tại địa cung, rồi để cho âm hồn bất tán trở thành quái vật? Làng này đã từng xảy ra sự việc phản loạn? Việc này liên quan gì tới con cá khổng lồ dưới sông Hoàng Hà không? Cô gái Khiết Đan trong bộ Liêu chết vào thời Đường, Tống, tại sao trong mộ cô ta lại có bức tranh về ngôi làng Thiên Cổ Dị Đế này? Không lẽ đó chính là cơn ác mộng của cô gái kia khi còn sống? Tại sao trải qua nhiều năm như vậy, tôi lại có cùng giấc mơ với cô gái Khiết Đan? Thôn Thiên Cổ Dị Đế không lẽ đã bị vướng vào một lời nguyền đáng sợ nào đó?”

Tôi đứng thất thần trước bức bích họa, các ý nghĩ đan xen vào nhau, đột nhiên sống lưng ớn lạnh, ánh nến chập chờn, cảm giác ớn lạnh từng cơn lại trỗi dậy, tôi quay đầu lại nhìn, chính là cô bé đó đang đứng trong góc tường, cô bé thấy tôi tiến lại gần liền quỳ sụp xuống khóc thút thít, miệng lẩm bẩm như đang nói gì đó.

Tôi nghe đứt đoạn không được rõ, dường như cô bé đang nói: “Nhiều năm... không dễ dàng gì... hôm nay gặp nạn... xin cứu giúp... xin đừng động vào...”

Tôi thất kinh, hỏi lại: “Cháu nói gì? Đừng động vào đâu?”

Đúng lúc đó, Mặt dày vỗ mạnh vào vai tôi, mồm oang oang: “Cậu gặp ma à? Tự dưng đứng một mình nói chuyện với bức tường? Đang tán tỉnh với em ma nào thế?”

Tôi giật bắn người, thiếu nước nhảy dựng lên, Mặt dày đã chuẩn bị xong đuốc, tới để giục tôi lên đường. Tôi bị anh ta làm cho hết hồn, vừa hoàn hồn nhìn lại thì trong góc tường đã trống trơn không có gì nữa.
[/size]

description{Full} Ma câm: Ma khóc dưới hồ Tiên Đôn - Thiên Hạ Bá Xướng - Page 11 EmptyRe: {Full} Ma câm: Ma khóc dưới hồ Tiên Đôn - Thiên Hạ Bá Xướng

more_horiz
Chương 16: Hồn ma trong chiếc gương đồng

5

Bấm vào đây để xem nội dung.
Vừa nãy chỉ trong khoảnh khắc, ánh nến lại mờ ảo nên không nhìn rõ được đứa bé gái, chỉ thấy mờ mờ hình bóng một người, chớp mắt đã không thấy đâu, góc tường không để lại chút dấu vết, trừ phi chỉ là cái bóng thì mới làm được như vậy.

Tôi chỉ thấy cô bé đó dường như là oan hồn trong ngôi miếu này, nhưng cô bé nói quá nhỏ, tôi nghe không được rõ cho lắm, tại sao tự nhiên lại quỳ xuống lạy tôi, lời cô bé nói có ý gì? Cô bé đang cần cầu cứu tôi giúp đỡ chăng? Cô bé đó đã chết như thế nào?

Mặt dày lại vỗ vào vai tôi: “Vẫn còn đứng đực mặt ra đó à? Cậu trúng tà thật hả?”

Tôi hỏi Mặt dày: “Ông đừng có giật đùng đùng lên sau lưng tôi thế, định dọa chết người à?”

Mặt dày ngạc nhiên ngắm nghía bức tường một lúc, hỏi tôi: “Cậu nhìn thấy gì thế?”

Tôi nói: “Chẳng có gì cả, mau rời khỏi đây thôi.”

Mặt dày còn chưa tin: “Điêu! Vừa nãy tôi thấy mắt cậu gian lắm, chắc chắn là chưa nói thật, chỗ này có món hời gì à?”

Tôi hạ thấp giọng: “Trong Na miếu này có ma, tin hay không tùy ông, không tin thì ông ở đây chờ mà xem, tôi đi trước đây.”

Mặt dày nói: “Sợ ma mà còn dám đi đào trộm mộ?”, anh ta không tin, đốt đuốc lên xoa tay phủi lớp bụi trên tường, phát hiện ra mấy viên gạch chỉ chạm nhẹ vào đã lung lay, hắn hiếu kỳ cạy viên gạch đó ra thì thấy bên trong tường là một đường hầm.

Tôi ngẩn người ngạc nhiên, vội ngăn lại: “Đừng vào, trong đó có ma đấy!”

Mặt dày nào chịu nghe lời tôi, anh ta chắc mẩm trong đó có bảo vật, hất cánh tay tôi ra chui vào trong.

Tôi chửi thầm trong bụng, lại lo anh ta xảy ra chuyện đành phải đánh liều đi theo.

Bên trong là một gian thạch thất chật hẹp âm u, tôi và Mặt dày soi đuốc lên thì thấy một bé gái đang ngồi bất động ở góc tường, cô bé đang ôm một thứ gì đó trong lòng, chân mang hài anh vũ màu xanh, mặc bộ quần áo giống như diễn viên tuồng trên sân khấu, cũng chẳng biết đã chết bao lâu nhưng diện mạo và màu sắc quần áo vẫn tươi mới, chẳng khác gì người sống cả, không hiểu sao lại có thể bảo tồn tốt như vậy.

Mặt dày chỉ vào xác chết nói: “Chỉ là một người chết thôi mà, ma đâu mà ma.”

Tôi nhìn cô bé khoảng tầm tám, chín tuổi, chết trong gian thạch thất này không dưới nghìn năm, vậy mà vẫn như người còn sống, lại hiện hồn trước mắt tôi, chắc chắn có nội tình gì đây, cô bé dặn tôi không được động vào thứ gì chứ?

Mặt dày nói: “Cô bé này chết cũng đã lâu rồi mà không thay đổi chút nào, hay là biến thành cương thi mất rồi, bọn mình bỏ xác cô bé ở đây không quản cũng không đành, hay là mang đi chôn, tránh sau này tác quái.”

Tôi nói: “Đưa người chết nhập thổ là yên, đây cũng là việc tốt nhưng ông đừng có sồn sồn lên thế, để tôi xem xét rõ ràng đã rồi tính.”

Mặt dày nói: “Lắm chuyện, mau làm đi, đào cái hố chôn cho xong để còn lên đường, ra khỏi cái chốn này cho sớm”, nói rồi anh ta xồng xộc tiến về phía xác đứa bé, thấy trong tay cô bé cầm chiếc gương đồng thì mững rỡ kêu lên: “Còn có một tấm gương đồng này”

Tôi dặn Mặt dày đừng động vào chiếc gương đó, dù sao thì chiếc gương đó cũng không thể dùng được nữa. Tới lúc chết, cô bé vẫn cầm chiếc gương trong tay, hơn nghìn năm nay chưa hề thay đổi, chiếc gương đó soi xác chết hơn nghìn năm qua, giờ mà soi người sống thì quá là xui xẻo, ai mà dám chường mặt mình vào chiếc gương đó chứ, ông có biết là soi vào sẽ nhìn thấy gì không?

Mặt dày cãi lại: “Cậu cứ đứng đó mà tự dọa mình, để tôi xem xem soi vào thì thấy gì nào...”, nói rồi gỡ lấy chiếc gương trong tay cô bé ra. Kể cũng lạ, chiếc gương vừa rời khỏi tay thì diện mạo và quần áo cô bé bỗng tối sầm xám xịt, trong phút chốc tất cả chỉ còn lại đống tro tàn.

description{Full} Ma câm: Ma khóc dưới hồ Tiên Đôn - Thiên Hạ Bá Xướng - Page 11 EmptyRe: {Full} Ma câm: Ma khóc dưới hồ Tiên Đôn - Thiên Hạ Bá Xướng

more_horiz
Chương 16: Hồn ma trong chiếc gương đồng

6


[size=11]Bấm vào đây để xem nội dung.
Hai chúng tôi thất kinh, không hiểu tại sao vừa lấy đi chiếc gương thì thi thể cô bé đã hóa thành tro bụi.

Tôi cầm lấy chiếc gương đồng, chính giữa mặt sau, chiếc núm gương là hình con rắn đang cuộn tròn, còn có hoa văn chim thần đang bay lên trời, chiếc gương không hề có hiện tượng hoen rỉ, cầm trong tay chắc nịch lạnh lẽo, ánh sáng vàng phát ra từ chiếc gương khiến người xem ớn lạnh, nó chính là cổ vật từ thời Hán. Tới lúc này, tôi mới vỡ lẽ, không chừng đây là một tấm gương báu, đặc biệt là hình con chim thần đúc ở mặt sau của gương có tên là “Bách Lao điểu”, người xưa thường gọi là chim Quyết[2]. Truyền thuyết kể rằng, con chim đó là do người tên Bách Kỳ biến thành, sau khi mẹ của Bách Kỳ qua đời, bố đi lấy vợ khác, mẹ kế sinh được người con trai, vì muốn lấy lòng chồng, để chồng yêu thương con trai mình nên người mẹ kế đó đã lời ngon tiếng ngọt với chồng, người bố tin lời vợ lẽ cho rằng Bách Kỳ có tâm địa không tốt, đã đem cậu vứt nơi đồng hoang. Cậu bé gieo mình xuống sông tự vẫn, biến thành chim Bách Lao, tấm lòng trong sáng như gương, có thể phân biệt thiện ác. Chiếc gương có đúc hình chim thần chắc chắn không phải là tầm thường. Dựa theo tình hình tôi phỏng đoán, cô bé chính là nô lệ của chiếc gương, trong Na miếu cũng có vẽ hình của cô bé, năm đó cô cầm gương chết trong gian thạch thất này, thi thể cô đã được đón nhận linh khí từ chiếc gương, vì thế nên thi thể cô hơn nghìn năm qua không bị rữa nát.

[2] Chim Quyết hay còn gọi là chim Bách Thiệt, trong truyền thuyết loài chim này có thể hót lên trăm thứ tiếng khác nhau.

Tôi hối hận vô cùng, đáng lẽ ra không nên để Mặt dày lấy mất chiếc gương đồng của cô bé. Vừa rồi cô bé hiện hồn về, có thể là đã biết ngày hôm nay gặp kiếp nạn, cầu xin tôi đừng động vào chiếc gương. Tôi lại không nghe rõ ràng, tới khi hiểu ra thì đã quá muộn, xem ra, đó là ý trời. Tôi kể vắn tắt chuyện này cho Mặt dày nghe.

Anh ta vội nói: “Thì cứ coi như cô bé đó sớm được siêu thoát sớm, đi đầu thai. Giữ mãi chiếc gương đó cũng có tác dụng gì đâu...”, nói rồi anh giật lấy chiếc gương trên tay tôi lau chùi lớp bụi bên trên, nâng niu không nỡ rời tay. Xem chừng anh ta định nhét chiếc gương này vào cái túi da rắn luôn đây.

Tôi bỗng nghĩ lại, thấy lời nói của cô bé rất lạ. Nếu là ma thì tại sao lại lo sợ việc động vào chiếc gương sẽ khiến thân xác biến thành tro bụi. Người thì đã chết rồi, thi thể có bị phân hủy thì cũng còn ý nghĩa gì nữa đâu, cũng đâu hồi sinh chuyển thế được, vậy tại sao cứ phải giữ khư khư chiếc gương không được động vào?

Tôi nghĩ hình ảnh cô bé mà tôi gặp trước đó không phải là ma. Tương truyền “Nghìn năm có bóng, tích bóng thành hình”, xác chết đó soi bóng vào trong gương hơn một nghìn năm qua không thay đổi, chiếc bóng trong gương dần có ý thức, có thể chỉ cần thêm vài trăm năm nữa nó có thể tích bóng thành hình, nhưng đạo trời không cho phép, vậy nên cô bé mới nói nhiều năm tu luyện không dễ dàng gì, lại có linh tính sẽ gặp phải kiếp nạn nên tới cầu cứu tôi đừng động vào chiếc gương và xác chết kia, chẳng phải là cô bé đã biết khó tránh khỏi kiếp nạn này rồi sao? Giờ đây thi thể đã hóa ra tro, chiếc bóng trong gương cũng không còn cơ hội để tu luyện thành hình nữa rồi, không chừng chỉ cần qua vài năm nữa thì chiếc bóng đó cũng tiêu tan, cô bé nhất định sẽ rất hận chúng tôi, giờ này còn mang theo chiếc gương chẳng phải tự rước họa vào thân.

Nghĩ vậy, tôi nói Mặt dày đừng tham nhặt chiếc gương, vội giành lại nó từ tay anh ta, tôi vốn định đặt chiếc gương lại trên mặt đất, nhưng khi cúi xuống đã vô tình thấy mặt tôi hiện ra trong gương.

Chiếc gương cổ vẫn giữ được vẻ sáng, bóng, không cần soi đèn vẫn nhìn thấy rõ mặt người, rõ đến từng cọng tóc, tôi thấy khuôn mặt cô bé xuất hiện phía sau tôi, đôi mắt ánh lên vẻ hận thù.

Mắt tôi chạm vào ánh mắt của cô bé, bỗng cảm thấy lạnh buốt toàn thân, mồ hôi lạnh vã ra như tắm, quay đầu nhìn lại thì không thấy gì, tôi biết chắc là hồn ma trong chiếc gương, đanh định vứt chiếc gương xuống đất thì thấy như có hai bàn tay đang bóp lấy cổ mình khiến tôi không thở được, vội đưa tay sờ lên cổ thì không thấy gì, cúi xuống nhìn chiếc gương, thấy trong gương hiện ra hình ảnh tôi đang bị hồn ma bóp cổ.

Tôi kinh hãi vô cùng, vứt toẹt chiếc gương xuống đất, nhưng trên cổ vẫn cảm nhận được đôi bàn tay lạnh lẽo đang sít ngày một chặt hơn. Tuy hồn ma trong chiếc gương chỉ là một bóng ma, nhưng đã được hưởng linh khí của chiếc gương hơn một nghìn năm qua đâu phải là chuyện đơn giản. Trong địa cung của hầm mộ Na vương nguy hiểm như vậy chúng tôi cũng thoát ra được rồi, không lẽ lại chết trong gian mật thất này?

Tôi bắt đầu cuống, nghĩ vội mấy cách để thoát thân, nhưng toàn thân cứng đơ không thể động đậy được, chỉ có hai mắt còn có thể chuyển động, giờ cho dù có bản lĩnh bằng trời cũng không tài nào dùng nổi.

Mặt dày trông thấy bộ dạng của tôi thì chẳng hiểu mô tê gì, hỏi: “Cậu lại gặp ma rồi à?”

Tôi nói thầm trong bụng: “Hồn ma này bóp chết tôi xong rồi cũng tới lượt ông, còn không mau chạy đi?” khổ nỗi không thể nào lên tiếng được, chỉ biết kêu khổ trong lòng, cổ tôi bị bóp ngày càng mạnh, không thể nào thở nổi, hai mắt bắt đầu trắng dã. Đúng lúc đó, tôi bỗng thấy cổ mình nhẹ hẳn, vội vàng hớp lấy hớp để không khí, trong lòng thắc mắc tại sao hồn ma đó lại đột nhiên tha cho tôi.

Nhìn lại thấy cô bé đã quỳ mọp ở góc tường, mặt biến sắc, quay về phía chúng tôi vái lạy sì sụp, rồi bỗng chốc tan biến. Tôi thấy lạ liền cầm chiếc gương lên xem, hình ảnh cô bé trong gương không còn nữa, chiếc gương đồng cũng tối sậm lại. Khi tôi quay người lại thì thấy Điền Mộ Thanh đang đứng ngay phía sau, mặt cô trắng bệch như người chết.
[/size]

description{Full} Ma câm: Ma khóc dưới hồ Tiên Đôn - Thiên Hạ Bá Xướng - Page 11 EmptyRe: {Full} Ma câm: Ma khóc dưới hồ Tiên Đôn - Thiên Hạ Bá Xướng

more_horiz


Chương 17: Tầm Na chí dị

1


[size=11]Bấm vào đây để xem nội dung.
Hóa ra Điền Mộ Thanh đợi bên ngoài cửa miếu đã lâu mà không thấy chúng tôi ra, sợ chúng tôi có chuyện nên cô đã đốt nến lên đi vào thạch thất để tìm.

Tôi kinh hãi cúi đầu nhìn tấm gương rồi lại nhìn Điền Mộ Thanh, trong lòng nghĩ: “Hồn ma trong chiếc gương này quỳ lạy chúng tôi rồi biến mất là do nhìn thấy Điền Mộ Thanh đi vào ư?”

Tôi thấy Điền Mộ Thanh có gì đó không ổn, cô ta có thể nhận biết bức bích họa là của đời Đường thì đã đành, đến văn tự cổ trong Na miếu cô ta cũng đọc được, hồn ma trong gương đồng lại sợ cô ta. Rốt cuộc cô ta có can hệ gì với ngôi làng cổ này, là một ma nữ trốn chạy ra từ ngôi làng này ư?

Tôi nhìn chiếc gương thêm mấy lần nữa, không thấy có gì khác lạ, chắc hồn ma trong đó đã tiêu tan thật rồi, giờ nó đã trở thành một chiếc gương hết sức bình thường.

Điền Mộ Thanh sớm nhìn thấy chiếc gương tôi đang cầm trên tay, mặt trắng bệch, đờ đẫn hỏi tôi: “Đây... đây là...”

Tôi thấy sắc mặt Điền Mộ Thanh bỗng chốc thay đổi thì biết mình đoán không sai, hỏi lại: “Cô nhận ra chiếc gương này?”

Điền Mộ Thanh gật đầu rồi lại lắc đầu, cô không nói gì nữa, chỉ đứng thất thần nhìn chiếc gương.

Tôi biết Điền Mộ Thanh có một số chuyện còn chưa nói với chúng tôi, nhưng cô không có ý hại người. Tôi giao chiếc gương lại cho cô, ba người quay trở ra ngoài Na miếu. Mặt dày cõng Điếu bát trên lưng, tôi và Điền Mộ Thanh cầm đuốc soi đường, ra khỏi Na miếu nhằm hướng bắc thẳng tiến.

Trong khu rừng dày đặc sương mù giăng mắc, toàn là những gốc đại thụ mấy người ôm không xuể, cành cây chĩa ra chi chít. Vừa mới mưa xong nên trong rừng rất ẩm ướt, mùi gỗ cây mục nát bốc lên nồng nồng. Tôi nghĩ sơ đồ vẽ trên bức tường không thể sai được, đi thẳng về hướng bắc chính là Thảo Hài Lĩnh, cứ đi theo la bàn là được.

Tôi vừa đi vừa nói chuyện với Điền Mộ Thanh, tôi hỏi thẳng luôn cô ta: “Cô nói thật với tôi đi, trước đây cô đã từng tới thôn Thiên Cổ Dị Đế rồi phải không?”

Điền Mộ Thanh trả lời: “Chưa... Sao anh lại hỏi vậy?”

Tôi nói: “Cô giấu được người khác nhưng không giấu được tôi đâu. Cô cũng không nghĩ xem tôi là ai. Định đối phó với tôi? Cô vẫn còn non lắm.”

Điền Mộ Thanh nói: “Tôi chẳng có ý đối phó với anh làm gì. Đã nói đến đây rồi, anh có tin hay không thì tùy, không tin tôi cũng chẳng có cách nào khác.”

Tôi biết cô nàng vẻ ngoài hiền dịu nhưng không yếu đuối chút nào, đành phải hỏi: “Cô đến rồi thì nói đến rồi, có sao đâu.”

Điền Mộ Thanh nói “Tôi hiểu tại sao anh lại nghi ngờ, có điều có những việc tôi không biết phải nói sao, có nói anh cũng chẳng tin.”

Tôi nói: “Muốn nói hay không là tùy cô, tin hay không là ở tôi. Tôi vẫn lựa chọn tin tưởng cô, nếu không tôi đã bỏ mặc cô từ lâu rồi.”

Điền Mộ Thanh lại nói: “Đúng là tôi chưa từng tới đây, nhưng lại có cảm giác rất quen thuộc với nơi này, giống như... giống như kiếp trước đã từng biết tới nơi này vậy.”

Thấy cô nàng không có vẻ như nói dối, tôi trong lòng kinh ngạc, miệng thì lại hỏi: “Làm gì có chuyện đầu thai chuyển thế...”

Điền Mộ Thanh nói: “Tôi cũng không tin. Nhưng tôi nhìn quang cảnh nơi đây như đã từng gặp, nhìn thấy quan tài dưới địa cung thì tôi lại có cảm giác sợ hãi vô cùng, nhưng không lý giải nổi vì sao lại sợ. Lúc trên tàu nghe các anh nói chuyện ngôi mộ cổ trong núi Hùng Nhĩ, tôi cũng không hiểu vì sao mình lại có cảm giác muốn tới đây. Khi đến đây rồi tôi mới hiểu, đó chính là số mệnh của tôi, tôi có cảm giác mình sẽ không thoát ra khỏi ngôi làng này.”

Tôi an ủi cô nàng: “Tôi là do suốt ngày mơ thấy ác quỷ đến đòi mạng, không thể không tới đây đào mộ trộm bảo, không ngờ dùng giấy dập lửa, rước họa vào thân. Còn cô trong cõi hư vô như có sợi dây vô hình kết nối với người làng cổ này. Hai chúng ta như châu chấu trên cùng sợi dây, nếu có chuyện thì chẳng ai thoát ra được, cô cũng đừng lo lắng quá, trời sập đã có tôi chống hộ cô. Con người tôi thường ngày ăn nói ngang tàng, nhưng chủ yếu đều là những câu nói tận đáy lòng, ruột để ngoài da, nếu có chỗ nào mạo phạm thì cô đừng để bụng nhé.”

Điền Mộ Thanh nói: “Các anh cứu mạng tôi, tôi còn chưa biết phải báo đáp thế nào, sao mà trách anh được.”

Chúng tôi nói ra được những lời này như trút được gánh nặng, nhưng tôi không tin Điền Mộ Thanh đã từng chết ở ngôi làng Thiên Cổ Dị Đế này, sau khi đầu thai chuyển thế lại quay lại, chuyện này chắc có nội tình gì đây, có điều tôi chưa tìm ra chân tướng mà thôi.

Lúc này, tôi chỉ mong mau chóng tới Thảo Hài Lĩnh, mau chóng rời xa nơi quỷ quái này. Còn ngôi làng cổ đó đã từng xảy ra chuyện kỳ quái gì tôi không còn quan tâm nữa, đó không phải là việc tôi có thể đối phó được, chỉ mong là cả hội không bị chết ở đây.

Tôi và Mặt dày thay nhau cõng Điếu bát, Điền Mộ Thanh cầm đuốc soi đường. Ba người đi không ngừng nghỉ, chỉ thấy trong lớp sương mù dày đặc từng hàng tùng bách lừng lững, xem ra chúng tôi sắp ra khỏi khu rừng rồi, nhưng trước mắt không thấy hang động đâu, chỉ thấy một tấm bia mọc lên giữa đám cỏ dại um tùm, bên trên khắc chi chít văn tự cổ. Điền Mộ Thanh tiến lên xem xét, cô nói đây chính là tấm bia đá Tầm Na.

Cả ba chúng tôi nhìn nhau thất kinh. Trên bản đồ thì tấm bia nằm ở phía nam ngôi làng, chúng tôi đi về hướng bắc tại sao lại tới đây được chứ? Hơn nữa từ chỗ Na miếu xuất hành, chúng tôi cũng chưa đi xa là mấy, cho dù tốc độ nhanh tới đâu cũng không thể đi xa được như vậy.

Mặt dày nói: “Hay là bọn mình lấy báu vật của thôn nên những hồn ma kia giữ chân bọn mình lại không cho ra khỏi nơi này. Ghê gớm thật, bọn này định dùng chiêu đi lòng vòng này khiến tụi mình mệt chết đây.”

Tôi nói: “Oan hồn giữ chân thì cùng lắm là đi lòng vòng tại chỗ thôi. Bọn mình gặp phải chuyện còn khó hiểu hơn, rõ ràng là đi về hướng bắc thì lại xuất hiện ở phía nam của làng, xung quanh tối đen như vậy, chỉ e có đi tới chết cũng không ra khỏi nơi này.”
[/size]

description{Full} Ma câm: Ma khóc dưới hồ Tiên Đôn - Thiên Hạ Bá Xướng - Page 11 EmptyRe: {Full} Ma câm: Ma khóc dưới hồ Tiên Đôn - Thiên Hạ Bá Xướng

more_horiz
Chương 17: Tầm Na chí dị

2

Bấm vào đây để xem nội dung.
Chúng tôi cũng liệu trước là không dễ ra khỏi nơi này, nhưng không ngờ là đi về hướng bắc lại tới hướng nam như vậy.

Tôi nhớ tấm bia Tầm Na, hẳn nó ghi chép lại những sự việc quan trọng của ngôi làng nên nói Điền Mộ Thanh đọc nội dung trên bia.

Đêm tối mịt mùng, bia đá lại cao to lừng lững, Điền Mộ Thanh phải đứng lên lưng con bí hí mới đọc được chữ trên bia. Tấm bia ghi chép rất nhiều nội dung, Điền Mộ Thanh nhất thời cũng không lý giải hết được.

Chúng tôi đặt Điếu bát nằm trên lưng bí hí, thấy anh ta thở thoi thóp, chúng tôi không khỏi lo lắng.

Mặt dày thở dài thườn thượt, anh ta nói với Điếu bát: “Chỉ còn một bước nữa thôi, một bước nữa là ra khỏi đây rồi, kiểu gì anh cũng phải cố lên đấy, về tới nhà rồi mới được phép xuôi tay.”

Tôi nói với anh ta: “Anh ấy đã thế này rồi ông nói mấy cũng có tác dụng gì, mà có nghe thấy cũng bị ông làm cho tức chết.”

Mặt dày gân cổ cãi lại: “Người chỉ còn chút hơi tàn, dở sống dở chết, mê man bất tỉnh rồi, chỉ có điều hồn chưa đi thôi, hồn mà đi thì người cũng chẳng còn. Cho dù anh ấy không nghe thấy, nhưng vẫn phải nói để giữ hồn lại, không chừng lại không chết.”

Tôi gật đầu tán thành: “Đúng là có cách nói như vậy. Bình thường trông ông rất quê mùa thô kệch, không ngờ cũng biết điều này.”

Mặt dày nói: “Cái này gọi là chân nhân bất lộ tướng, không phải thép nguội mà là vàng ròng đấy.”

Tôi nói: “Vừa rồi ông nói tới chuyện ma giữ chân khiến chúng ta không ra được chỗ này, tôi nghĩ tới nghĩ lui cũng có lý. Tôi vẫn nhớ Lư mặt rỗ có nói dưới hồ Tiên Đôn có một thôn làng, năm đó đói kém, một người dân đã tới khu làng này trộm gạo, khi lấy rõ ràng là gạo trắng phau phau, khi ra khỏi làng bỗng trở thành bùn đất. Đó chẳng phải là ma vùng này giở trò sao?”

Mặt dày sợ chiếc vương miện vàng cũng biến thành đất, vội vàng mở chiếc túi da rắn ra xem, may là đồ ở trong vẫn còn nguyên.

Tôi nói: “Người trộm gạo sau khi ra khỏi khu làng này thì gạo mới biến thành đất, bọn mình đã ra khỏi đây đâu, ông kiểm tra bây giờ cũng bằng thừa.”

Mặt dày nói: “Lấy được mấy món này đâu phải dễ, mấy lần suýt bỏ mạng rồi, sau khi ra ngoài mà biến thành đất thì đúng là bắt nạt người quá đáng.”

Tôi nói: “Không thể không lường trước tình huống xấu nhất, nếu đi nhầm vào trong chợ núi của thôn Thiên Cổ Dị Đế thì có đi tới chết cũng không ra khỏi đây được.”

Mặt dày lại hỏi: “Chợ núi? Ở đó bán gì vậy?”

Tôi giải thích: “Chợ núi còn gọi là chợ ma, không phải kiểu chợ âm phủ như dưới xuôi mình. Ở vùng Thiên Tân và Bắc Kinh có một loại chợ canh tư họp, canh năm tan, bày hàng ở chợ đều là đồ không có nguồn gốc, lai lịch bất minh, hai bên mua và bán đều thậm thà thậm thụt giấu giấu giếm giếm. Còn chợ ma trên núi là ám chỉ việc ông đi vào nơi thâm sơn cùng cốc không một bóng người nhưng lại gặp tường thành, nhà cửa, phố xá, miếu tự, cung điện, bảo tháp, hàng quán, người dân đi lại tấp nập rộn ràng, nhìn thấy rõ mồn một ngay trước mắt, nhưng chỉ cần một trận gió thổi qua thì mọi thứ trở nên mờ nhạt, phút chốc đều bị gió thổi bay hết hóa thành mây khói, người đi lạc thì đứng đần người ra ko hiểu chuyện gì, đó chính là chợ ma, nếu lúc đó mà bước vào trong thì chỉ có nước tan biến cùng cái chợ đó luôn.”

Mặt dày nói: “Hóa ra là vậy, hồi ở núi Kỳ Liên tôi cũng gặp hiện tượng này rồi, nhìn thấy mà không sờ được, nhưng khác hẳn với lần này của tụi mình.”

Tôi chỉ tiện mồm nói vậy không ngờ Mặt dày nói là đã gặp chuyện này trên núi Kỳ Liên, tôi tò mò hỏi anh ta sự thể ra sao, hai người nói qua nói lại một chập cũng chẳng rút ra được điều gì, chỉ tổ sốt ruột hão.

Tôi giao cho Mặt dày đứng dưới canh chừng động tĩnh, còn mình leo lên trên lưng bí hí xem Điền Mộ Thanh có đọc được gì không.

Điền Mộ Thanh đọc tấm bia từ nãy tới giờ cũng chỉ hiểu được một nửa, cô chắt lọc nội dung quan trọng đọc cho tôi nghe. Mặt dày ở dưới cũng đang chăm chú lắng nghe. Không ngờ nội dung trên tấm bia này lại ly kỳ như vậy.

Điền Mộ Thanh giải thích tấm bia ghi chép rất nhiều sự kiện. Na quốc là một vương quốc cổ khởi nguồn từ thời Tây Chu, sùng bái quỷ thần, bị diệt vong vào thời hậu Xuân Thu chiến quốc. Những người dân còn sống sót lánh nạn vào trong rừng sâu, dần dần phát triển thành Na giáo, thủ lĩnh gọi là Na vương. Tới thời Tây Hán, từ Hoàng đế vương hầu cho tới người dân đều thịnh hành phong tục tế thần đuổi quỷ.

Tôi nghe đến đoạn này thì cũng không khác là mấy với những gì Điếu bát kể, nhưng nội dung tiếp theo là những chuyện mà anh ta không hề biết.

Điền Mộ Thanh đọc tiếp: “Việc Tầm Na diệt trừ yêu ma quỷ quái được phân thành Cung Na, Thôn Na, Sơn Na, Thủy Na, Động Na. Từ Na có nghĩa trói buộc, từ cái tên đã thấy được ý nghĩa bắt ma bắt quỷ để chúng không còn tác oai tác quái được nữa. Sau đó, Na giáo lợi dụng việc quỷ thần để kêu gọi người dân làm phản, tới thời Đông Hán thì bị triều đình trấn áp, Na giáo kéo nhau vào rừng sâu núi thẳm lánh nạn, rồi ở lại đó không còn giao lưu với bên ngoài. Lâu dần không còn liên quan gì tới phong tục Tầm Na vẫn được lưu truyền trong dân gian nữa. Ngôi làng Thiên Cổ Dị Đế được xây dựng ở đây còn ẩn chứa một bí mật rất lớn. Tương truyền, mỗi lần trên bầu trời xuất hiện thiên cẩu ăn mặt trăng, chính là lúc âm khí trên mặt đất nặng nề nhất, người dân trong làng sẽ tổ chức lễ Tầm Na tế quỷ. Họ ném ác quỷ đã bị tước hết pháp thuật xuống hố tế lễ nhằm diệt trừ tận gốc mầm họa và khiến ác quỷ vạn kiếp không thể siêu sinh. Hố tế lễ chính là cánh cửa thông tới “Đất quỷ”.”

description{Full} Ma câm: Ma khóc dưới hồ Tiên Đôn - Thiên Hạ Bá Xướng - Page 11 EmptyRe: {Full} Ma câm: Ma khóc dưới hồ Tiên Đôn - Thiên Hạ Bá Xướng

more_horiz
Chương 17: Tầm Na chí dị

3

Bấm vào đây để xem nội dung.
Từ xưa, trong Na giáo đã rất phân biệt đẳng cấp, theo thứ tự bậc cao tới thấp là Na thần, Na vương, Na tướng, Na sỹ, Na dân. Hầu như không ai biết “Đất quỷ” là nơi nào, thường ngày cũng không cho phép người dân nhắc tới điều này, chỉ biết từ rất xưa rồi có một vương quốc tên là Đất quỷ.

Thời Tùy, Tùy Dương hoàng đế vô đạo, lê dân trăm họ chịu muôn vàn khổ cực. Tùy Dương hoàng đế tin vào đạo tiên, đã cho người xây dựng một gian bảo điện nóc vàng bên bờ sông Hoàng Hà với ý đồ thỉnh mời tiên nhân xuống gặp mặt. Tiên đâu chẳng thấy, chỉ thấy Hoàng Hà mấy năm sau đó dịch bệnh liên miên, thiên tai không ngớt, người dân đồn nhau có ma hoàng hoành hành, triều đình mời Na giáo tới bắt ma trừ tà. Na vương khi đó nghe nói ma hoàng đang gây họa thì cũng không thể nhắm mắt làm ngơ, lệnh cho Na tướng Phùng Dị Nhân tới bờ sông Hoàng Hà để bắt ma. Phùng Dị Nhân từ lúc sinh ra đã to lớn hơn người, thân hình vạm vỡ, chân dài tay dài nên mới có tên gọi là Dị Nhân. Anh ta đào được một cỗ quan tài gần ngôi điện mái vàng, bên trong là một con ma hoàng do người chết hóa thành, toàn thân mọc đầy lông trắng, máu thịt của nó có thể lây truyền dịch bệnh, Na vương chuẩn bị mổ bụng rút ruột trừ tà, bỗng trời đất tối sầm, nước sông Hoàng Hà dâng cao, có người nhìn thấy một con cá khổng lồ đã nuốt chửng ma hoàng, cả gian điện mái vàng đều bị lún chìm xuống hố cát vì nước sông tràn vào, ngôi điện từ đó không còn nhìn thấy ánh mặt trời.

Tôi nghe Điền Mộ Thanh đọc tới đây thì nghĩ, đó chính là nơi mà lão Nghĩa mù nói tới. Năm xưa khi Đả thần tiên Dương Phương cùng Thống lĩnh quân phiệt Đồ Hắc Hổ rơi vào động cát, bản lĩnh như Thôi lão đạo cũng không biết lai lịch của con cá và ngôi điện đó, giờ chuyện cũ tan như mây khói, người thì đã hóa thành cát bụi từ lâu, tôi có biết thì cũng đâu có tác dụng gì.

Mất tập trung một lúc khiến tôi bỏ lỡ mất một đoạn, nghe Điền Mộ Thanh kể tiếp đoạn sau. Dị Nhân đại nạn không chết, đã thoát ra được từ cơn nước lũ, một mình quay lại núi Hùng Nhĩ ở Dự Tây. Ngờ đâu, sau cơn hồng thủy, trong vòng bán kính một trăm cây số không một bóng người, đừng nói tới lương thực, ngay cả rễ cây, vỏ cây cũng không đào đâu ra. Đành chịu đói đi một đoạn đường dài, chuyện kể cũng thật trùng hợp, đang đi bỗng anh ta nhìn thấy một cục thịt to nằm chình ình giữa đường, cục thịt hình tròn dài trắng nõn, chạm vào hình như nó còn động đậy. Anh ta cũng không biết đó là thứ gì, cứ nghĩ là thịt Tê hay Thái Tuế gì đó, vì lúc đó đã đói mờ mắt rồi nên đừng nói đó là thịt gì, cho dù là thịt người thì cũng dám ăn, nên lúc đó đã ăn luôn cục thịt giữa đường này.

Phùng Dị Nhân sống sót trở về, cũng không nói gì với dân làng về việc kia, cũng không ai phát hiện ra điều gì khác thường. Nhưng Na vương đã thay hết đời này sang đời khác, người dân trong làng có người chết, có trẻ em mới sinh ra, duy có anh ta là vẫn vậy, mấy chục năm trời qua đi vẫn không già không chết.

Trên đời này làm gì có bức tường nào chắn được gió, chuyện rồi cũng vỡ lở, đầu làng cuối xóm đang truyền nhau chuyện Phùng Dị Nhân ăn thịt tiên, nên trường sinh bất lão, sắp đắc đạo thành tiên rồi. Nhưng từ sau khi trở về làng thì hành tung của anh ta rất lạ, mỗi lần dân làng tổ chức bắt ma thì anh ta trốn biệt, không bao giờ để cho mọi người nhìn thấy phần lưng của mình, trong làng thường xuyên có người bị mất tích.

Sau đó các vị trưởng lão của Na giáo phát hiện ra Phùng Dị Nhân năm nọ bên bờ sông Hoàng Hà không phải ăn thịt tiên mà là ăn trứng của loài nhện đất. Loại nhện này chỉ có sáu chân, không nằm trong năm loại côn trùng thường gặp. Không có thứ gì là chúng không cắn nát được, Phùng Dị Nhân ăn phải số trứng đó không biết đã được chôn dưới đất bao nhiêu năm, hút được long khí trong lòng đất và hắc đạo, có linh hồn có ý thức, thân thể bất diệt, được gọi là rồng đất. Nghe nói nó được chôn dưới sông từ khi nước sông Hoàng Hà vẫn còn trong suốt. Mọi người đều biết, nước sông Hoàng Hà đỏ đục phù sa, đã ai từng nhìn thấy nước sông trong suốt bao giờ chưa? Vậy mà nó đã từng thấy, thế cũng đủ biết là lâu đời như thế nào. Rồng đất vốn ưa ngủ, không ngờ bị trận đại hồng thủy hất tung ra bên ngoài, vẫn còn đang nửa mê nửa tỉnh thì đã bị Phùng Dị Nhân nhìn nhầm là thịt rồi chén sạch. Hậu quả là anh ta như trúng phải lời nguyền, mãi không già không chết, đó là bởi nguyên khí của rồng đất đang dần chiếm dụng thân xác của anh ta. Phía sau đầu Phùng Dị Nhân mọc ra một khuôn mặt nữa, miệng rộng tới mang tai. Hút máu ăn thịt người, những người dân trong làng bị mất tích là đều do hắn ăn thịt.

Tôi nghe tới đây chợt nhớ tới rồng đất trong Thông Thiên Lĩnh, nhưng hai con vật này hoàn toàn không giống nhau chẳng qua chỉ chung tên gọi mà thôi.

Điền Mộ Thanh lại đọc tới đoạn sau của tấm bia. Na vương nhân lúc rồng đất ngủ say đã sai người bắt Phùng Dị Nhân mổ bụng rút ruột, ngờ đâu trong bụng Phùng Dị Nhân lổn nhổn toàn là nhện đất, chúng bò ra ngoài và cắn chết vô số người dân. Oan hồn của rồng đất mãi không siêu thoát được, đã nhập vào thân xác Phùng Dị Nhân tác quái, nơi nào hắn đi qua thì không có người và vật nào có thể sống sót. Dân làng Thiên Cổ Dị Đế không có cách nào đối phó với con yêu quái này, đành phải quỳ lạy nhận lỗi đã làm hỏng thân xác của quân vương, nay xin dùng chiếc áo ngọc và tượng vàng tổ chức hậu táng tại Huyền Sơn cung, những vật báu của Na giáo như vương miện vàng Lộc thủ bộ dao quan, cốc mã não đầu thú, gối âm dương, đai ngọc hoa văn hình rắn và mây, gậy sừng tê giác, gương đồng đúc hình chim thần, thanh Yểm Nhật kiếm của Việt vương... đều được tùy táng trong địa cung. Trong đó vương miện vàng, đai ngọc, gương đồng là đồ của phụ nữ âm khí quá nặng nên kèm theo thanh trượng bằng sừng tê giác, thanh bảo kiếm của Việt vương, gối âm dương, cốc mã não tùy táng cùng. Ngoài ra, Na vương còn cho xây dựng miếu thờ, mỗi năm dùng trâu đen, ngựa bạch, đồng nam đồng nữ cúng tế. Có vậy mới đem được thi thể Phùng Dị Nhân liệm vào quan tài, đặt trong địa cung dành cho các Na vương. Dòng cuối cùng của tấm bia viết “Lập bia tại đây, báo cho con cháu đời sau không được dừng cúng tế, không được vào địa cung. Đường Vĩnh Huy năm thứ ba”.

Mặt dày đang nghe say sưa, thấy Điền Mộ Thanh không đọc nữa liền hỏi: “Thật là ly kỳ, tiếp theo thế nào?”

Điền Mộ Thanh nói: “Văn bia chỉ nói tới đó thôi, đoạn sau hết rồi...”

Tôi nói: “Cuối cùng cũng biết được gian chính diện trong hầm mộ là ai. Đường Vĩnh Huy năm thứ ba, vậy là tấm bia được lập thời Đường Thái Tông đang tại vị, đáng lẽ ra nên bắt rồng đất... Tôi có cảm giác Phùng Dị Nhân sau khi ăn phải trứng rồng đất rồi thì chỉ còn cái xác không hồn. Nên sau khi đã nhốt được thi thể của rồng đất vào trong địa cung thì văn bia không ghi chép gì thêm, có điều chuyện này hiển nhiên là chưa kết thúc.”

Mặt dày nói: “Sợ là sợ không có kết cục, chẳng phải làm người ta sốt ruột chết.”

Tôi nghĩ một lúc rồi nói: “Na vương chắc chắn là đang chờ đợi cơ hội để đưa âm hồn trong địa cung tới hố tế lễ phía cuối thôn, khiến nó không còn cơ hội quay trở lại, nhưng nửa chừng chắc có sự kiện gì đó, đoạn sau thì tôi không thể đoán được.”

description{Full} Ma câm: Ma khóc dưới hồ Tiên Đôn - Thiên Hạ Bá Xướng - Page 11 EmptyRe: {Full} Ma câm: Ma khóc dưới hồ Tiên Đôn - Thiên Hạ Bá Xướng

more_horiz
Chương 17: Tầm Na chí dị

4

Bấm vào đây để xem nội dung.
Điền Mộ Thanh nói với tôi và Mặt dày, có thể cô biết trong thôn Thiên Cổ Dị Đế sau đó đã xảy ra chuyện gì.

Tới lúc này, tôi cũng không còn lạ lẫm và kinh ngạc nữa, trông thấy cô nàng lục lọi tìm tòi trí nhớ, dường như có nhớ lại được chút ít, tôi nói: “Cô đừng vội, nhớ được bao nhiêu thì nhớ.”

Điền Mộ Thanh gật đầu, cô hồi tưởng lại một lúc rồi nói: “Rồng đất trúng kế hoãn binh, bị nhốt tới thời Đường Thiên Bảo năm thứ nhất thì gặp năm có thiên cẩu ăn mặt trăng, trong thôn lại tổ chức nghi lễ bắt ma, chuẩn bị đưa âm hồn bất tán của rồng đất về Đất quỷ, nhưng nghi lễ động Na tống quỷ rất nguy hiểm, chỉ cần có chút sơ suất thì toàn bộ cả thôn làng đều gặp họa. Đúng là ghét của nào trời trao của đó, con đường thông từ nơi tế lễ đến Đất quỷ chỉ xuất hiện trong thời khắc thiên cẩu ăn mặt trăng. Trước nay làm lễ chưa từng xảy ra chuyện gì, vậy mà lần này lại xảy ra sự cố, cánh cửa thông với Đất quỷ sau khi mở ra lại không đóng vào được, Na vương bất lực đành phải cho tất cả mọi người đeo mặt nạ vào cùng niệm chú cầu khấn thần linh, sau đó...”

Tôi và Mặt dày người đứng phía dưới người đứng trên lưng bí hí chăm chú nghe Điền Mộ Thanh kể.

Điền Mộ Thanh nói: “Sau đó... chuyện sau đó thế nào... tôi thực sự không thể nhớ nổi nữa...”

Mặt dày nói: “Cô sao lại thế chứ, chẳng phải khiến người ta sốt ruột chết mà không cần đền mạng còn gì.”

Tôi thắc mắc không biết, trong lúc làm lễ đã xảy ra sự cố ngoài ý muốn gì? Khi cánh cửa thông với Đất quỷ không thể đóng lại được thì Na vương đã cùng dân làng làm gì? Hai điểm này rất quan trọng. Tôi cố gắng suy luận, Đường Thiên Bảo năm thứ nhất, trong đêm thiên cẩu ăn mặt trăng đó, chính là thời khắc toàn bộ thôn Thiên Cổ Dị Đế chìm xuống lòng hồ, nhưng trên thực tế làng này chẳng hề bị nhấn chìm, vì trong lúc làm lễ đuổi ma thì xảy ra sự cố, không những chẳng đưa được âm hồn rồng đất về nơi Đất quỷ, mà cánh cửa nơi tế lễ cũng không thể nào đóng lại được, trong tình thế bất đắc dĩ ấy, tính mạng của toàn bộ dân làng đã bị cướp đoạt, may mà dùng thôn làng chắn được cửa vào. Bọn tôi và Hoàng phật gia không ngờ đã lạc vào thôn làng vốn đã biến mất từ lâu.

Trước đó, khi nghỉ chân tại quán trọ bỏ hoang nơi Thảo Hài Lĩnh, chúng tôi đã từng nhìn thấy xác chết đeo mặt nạ vỏ cây, có thể năm xưa trong lúc gặp nạn, ba người này cách thôn làng tương đối xa nên đã bị chìm xuống hồ, còn thôn Thiên Cổ Dị Đế và những vùng xung quanh thì đã bị rơi vào Đất quỷ từ năm Đường Thiên Bảo thứ nhất rồi. Đất quỷ có phải ám chỉ âm ti không?

Tôi nhớ lại lúc mở quan tài gỗ trầm hương để xác chết nữ, nét mặt bọn Hoàng phật gia rất kinh ngạc, vì sao lại vậy? Xác chết đeo vương miện Lộc thủ bộ dao quan là ai? Tôi cứ có cảm giác xác chết này liên quan tới Điền Mộ Thanh, càng liên quan tới đêm thiên cẩu ăn mặt trăng định mệnh đó.

Còn bức bích họa về ngôi làng Thiên Cổ Dị Đế trong mộ Liêu thì chắc chắn là cơn ác mộng gặp oan hồn trong mơ của nữ thần Saman khi còn sống. Nhưng tại sao tôi cũng bị vướng lời nguyền này thì tôi vẫn không lý giải nổi.

Tôi đem ý nghĩ đó nói với Điền Mộ Thanh và Mặt dày: “Bọn mình không biết lối nào có thể thoát ra ngoài, chỉ còn cách tìm hiểu xem Thiên Bảo năm thứ nhất của đời Đường đã xảy ra chuyện gì rồi tính tiếp.”

Mặt dày lại yên tâm vì không phải lo chiếc vương miện và gương đồng sẽ biến thành bùn đất. Anh ta chỉ lo thôn làng này rộng lớn, tầng tầng lớp lớp vây quanh mộ cổ Huyền Cung Sơn, hàng nghìn hàng vạn nóc nhà, nếu tìm từng căn một thì cũng không đơn giản.

Tôi đang định lên tiếng thì bỗng thấy mùi xác chết bốc lên từ phía ngôi làng, cách xa như vậy mà vẫn ngửi thấy.

Cả ba chúng tôi đều thất sắc, biết chắc là cương thi trong địa cung đã đi ra ngoài.

Tôi nói: “Xác chết của Phùng Dị Nhân đã bị hồn ma của rồng đất nhập vào, nghìn năm trước Na giáo còn không đối phó được với hắn, bọn mình không thể để bị hại, phải tìm chỗ trốn mau.”

Mặt dày hỏi: “Trốn vào đâu? Quay về Na miếu à?”

Tôi nghĩ cả bọn cứ loay hoay ở đây cũng không phải là cách hay, bức tranh trong Na miếu có vẽ một con đường màu đen, giống như là đường hầm nằm dưới thôn làng. Chúng tôi tìm kiếm xung quanh tấm bia, quả nhiên phát hiện một miệng hầm nằm cách đó không xa, nếu không cố tình đi tìm thì không thể phát hiện được. Đáng tiếc là tôi không chú ý kỹ tấm bản đồ nên không biết đường hầm này thông tới đâu.

Tình thế quá khẩn cấp, chẳng thể nghĩ ngợi được nhiều, chúng tôi đốt đuốc đi vào bên trong. Miệng hầm tuy nhỏ hẹp nhưng phía bên trong lại rộng rãi như đường hầm dẫn vào mộ, khắp nơi đầy hài cốt và đao kiếm, có dấu tích của sự giao tranh cho thấy trong làng đã xảy ra một trận chiến rất ác liệt.

Địa đạo dưới thôn làng ngoằn ngoèo uốn lượn với nhiều nhánh rẽ nhưng đi vào đều là ngõ cụt. Tôi để ý thấy hoa văn và gạch đá trong địa đạo đều không giống nhau. Những lối đi cụt đều là hoa văn chìm, lối đi thông là hoa văn nổi được khắc trên đá. Chúng tôi nắm bắt được quy luật nên chỉ chọn những ngách có hoa văn nổi để đi, tới một ngã ba, hai bên đều là hoa văn nổi, tôi nhất thời không biết chọn bên nào, chúng tôi rẽ vào ngách hướng tây trước, thì ra hướng đó đi về phía hố tế lễ, nhưng đi được một đoạn thì đường hầm sụt lở rất nghiêm trọng, phía trước đã bị đất đá chặn mất lối đi, nên đành phải quay lại đi sang ngách phía bên phải. Đi được một đoạn, chúng tôi gặp một phiến đá chắn ngay trước mặt, nhưng có trục xoay, chúng tôi tiến lại đẩy tấm đá ra, phía trong là một gian thạch thất, bốn phía bám đầy bụi bặm, trên tường có vẽ tranh, dưới đất có bộ hài cốt, bên cạnh là mấy chiếc rương gỗ nẹp đồng, vì bên trong lâu ngày không lưu thông không khí nên nồng nặc mùi ẩm mốc, trong này còn có bậc thang bằng đá.

Tôi cứ nghĩ đây lại là một hầm mộ nữa, nhưng tôi mau chóng ý thức được bọn tôi đang ở phía dưới ngôi làng. Có thể đây là một gian mật thất ngầm của một căn nhà nào đó trong thôn. Quay đầu nhìn những bức tranh trên tường, bất giác tim tôi đập thình thịch.

description{Full} Ma câm: Ma khóc dưới hồ Tiên Đôn - Thiên Hạ Bá Xướng - Page 11 EmptyRe: {Full} Ma câm: Ma khóc dưới hồ Tiên Đôn - Thiên Hạ Bá Xướng

more_horiz
privacy_tip Permissions in this forum:
You cannot reply to topics in this forum
power_settings_newLogin to reply